Nhà tôi hồi còn ở quê vẫn giữ nếp cũ, hai ba thế hệ sống chung trong một nhà. Bố tôi là con trưởng nên ông bà nội ở chung với gia đình tôi. Bà nội tôi mắc bệnh hiểm nghèo, mất khi mới ngoài sáu mươi tuổi. Chỉ còn ông nội tôi. Ông đã ngoài tám mươi tuổi nhưng vẫn khỏe mạnh, minh mẫn. Trong làng, bằng tuổi ông tôi không còn nhiều, chỉ còn vài cụ nhưng cụ nào cũng mắt mờ, chân chậm, đi lại, ăn uống đều khó khăn. Riêng ông tôi vẫn rắn rỏi, hồng hào, hằng ngày giúp đỡ con cháu lúc thì đan lát rổ rá, lúc thì tưới tắm, cắt tỉa cây cảnh…luôn chân, luôn tay.
Một buổi chiều nọ, sau khi đi đánh vài ván cờ với mấy cụ quanh xóm, ông tôi về nhà đột ngột lên cơn sốt. Toàn thân nóng bừng, đau nhức, ông nằm thở dốc từng chặp rất khó nhọc. Bố tôi xin cơ quan nghỉ phép hai ngày đưa ông đi thăm khám nhiều nơi nhưng không ra bệnh. Được gần một tuần thì ông tôi như lả đi, cố gắng lắm cũng chỉ húp được vài muỗng cháo. Bố tôi gọi hết các cô, chú trong nhà về cùng tìm cách chữa trị cho ông. Nghe có danh y ở đâu bố tôi cũng tới năn nỉ mời bằng được họ đến nhà bắt mạch. Thuốc men đều đặn nhưng bệnh của ông tôi không bớt, có chiều hướng xấu đi. Mọi người khi ấy đều bất lực, cho rằng bệnh của người già không rõ nguyên nhân thế này thì chỉ cầm cự qua ngày. Ai nấy đều chuẩn bị tâm lí cho điều xấu nhất xảy ra. Ông tôi xuống sức nhưng tinh thần còn tỉnh táo. Ông luôn động viên con cháu yên tâm không phải lo lắng cho ông. Rất lạ là cứ tầm chiều, khi trời chạng vạng là ông luôn nhắc con cháu đóng hết cửa sổ phòng ông đang nằm, dù khí trời mùa hè nóng hầm hập. Bố tôi nhiều lần hỏi: “Có phải bố thấy trong người lạnh phải không ạ?”, nhưng ông không nói. Đến một hôm đột nhiên ông tôi lắp bắp miệng, cuống quýt kêu con cháu đóng cửa. Thấy vậy bố tôi lại gặng hỏi, mãi ông tôi mới khẽ nói: