《Tuyết Tẫn Nguyệt Minh Tấu》
"Thế gian khổ cảnh lắm ai ơi,
Quốc sư đương thời hại chơi vơi.
Xương tủy giày vò, thân đọa đày,
Hận xưa chôn giấu dưới ba tấc.
Phi thăng chưa đặng mấy xuân hồng,
Đã bị truất phạt, truyền nhân gian.
Miệng đời thêu dệt nghịch thiên lý,
Đổi cả thiên cương, gieo họa lớn.
Lửa cháy lan, chẳng chút tro tàn,
Hồn đau xót, khổ lệ ngút ngàn.
Hết lối nhân sinh, đành đổi quỷ,
Một đời khai dựng ngôi Quỷ Vương.
Khai mở sát trường, tựa máu lửa,
Song lại hóa cảnh trẻ rong chơi.
Ngổn ngang tử địa, chẳng người sống,
Truy cùng giết tận chẳng tiếc rời.
Chỉ một ngày thôi, thương hồn vỡ,
Gần triệu thân tàn, thảm chẳng ngơi.
Thập thất quốc gia, dòng dõi tuyệt,
Máu dâng thành suối, xương tựa đồi.
Vừa ca vừa sát, lời vang rền,
Mỗi khúc bi ca vạn mạng rơi.
Khúc hát tang thương nhuộm máu đỏ,
Ngàn đời oán hận chẳng hề vơi!
《雪尽月冥奏》
世间苦景叹哀哉,
国师当时困徘徊。
骨髓摧残身受辱,
旧恨三尺土中埋。
未得飞升几度春,
已遭贬逐在人寰。
世口谣言违天理,
改换天纲祸乱开。
烈焰焚烧无寸灰,
魂灵悲痛泪成堆。
人道已穷归鬼路,
一生创立鬼王威。
杀界初开如血火,
战场化作稚童嬉。
尸横遍野无人活,
追尽屠残不顾谁。
只在一朝魂断绝,
百万生灵尽成灰。
十七诸国宗祚灭,
血流如海骨成堆。
且歌且杀声震天,
一曲悲歌万命颓。
血染哀音长不绝,
千秋怨恨永难摧。"