Thiên Đường Đã Mất
Tác giả: Jà Vu Dé
Huyền Dị/Phạm tội
Thử nghiệm: Thiên Đường Đã Mất, 27/06/25. Xin hãy đọc ở bố cục in nếu muốn theo dõi chú thích một cách trực quan hơn
***
"I guess I'll never know the reason why”
"You love me as you do”
"That's the wonder”
"The wonder of you” ¹
Hôm nay là thứ sáu, Jerry có lẽ sẽ muốn tôi lên bài về giải bóng bầu dục sắp thay vì viết về thứ kia.
"Buổi sáng tốt lành, đây là Edward Hall từ đài phát thanh Los Edenes. Chắc hẳn mọi người đều đã…”
Suốt một tuần trời và tôi chưa ngủ được quá mười sáu tiếng đồng hồ. Kể từ thứ năm tuần trước, khi họ thông báo về phát hiện mới ở dưới đáy Thái Bình Dương, tôi chẳng còn ngủ nghê được gì mấy.
“... trả lời báo chí, ông Allan Hoe cho biết mình và đồng sự sẽ sớm…”
Tôi không hề mệt mỏi hay uể oải. Trái lại, tôi thấy mình tỉnh táo, thực sự tỉnh táo. Khi họ tìm thấy gì đó dưới đáy biển sâu thẳm của Thái Bình Dương, tôi cũng đã nhận thấy nó. Ít nhất là tôi nghĩ thế.
"Này, cậu có ổn không đấy, Billy?”
Hôm nay là thứ sáu, Jerry đang dùng bộ smoking yêu thích của ông ấy.
"Bill, tôi muốn cậu lên bài cho giải bóng bầu dục của tuần sau. Để xem nào, 'Los Edenes và Blue Heaven - cuộc đối đầu duyên nợ’. Không được, nghe chán quá…”
Lúc nào Jerry trông cũng tràn đầy năng lượng, mái tóc hoa râm được chải chuốt kỹ lưỡng cùng bộ smoking khoa trương quá mức đó đủ sức khiến bất kỳ cô phóng viên mới vào nghề nào chết mê chết mệt. Da ông ấy luôn căng mịn đầy sức sống, có lẽ phải dùng cả đống thực phẩm chức năng. Tôi luôn tự hỏi…
“...Billy? Này Billy? BILLY?”
(¹) Lời bài hát The Wonder of You. Tác phẩm được sáng tác bởi Baker Knight năm 1959 và được biết đến rộng rãi hơn qua đĩa đơn của Elvis Presley năm 1970.
"Hả?” Tôi ngập ngừng. "Gì vậy?”
"Cậu có ổn không đấy?” Jerry nhướn mày.
Phải rồi, giải bóng bầu dục thường niên của chúng tôi. Tổ chức vào ngày 16 tháng Mười Hai hằng năm, trong vòng đúng hai tuần nữa. Los Edenes và Blue Heaven, chúng tôi chưa thắng trước Blue Heaven suốt mười hai năm nay rồi.
"À… ờm, tôi ổn. Nhưng ông chắc chứ? Ông có muốn tôi viết bài về phát hiện-”
"Bill.” Jerry cúi xuống, đặt tay lên vai tôi. "Nghe này, cậu trai trẻ. Tôi biết cậu là một nhà báo tốt, rất tốt là đằng khác, một cây viết tuyệt vời. Nhưng ừm… với vụ của gã Đồ Tể rồi cả mấy cái 'biến động’ gần đây nữa. Tôi chỉ muốn cậu tránh xa chúng hết mức có thể, nhé? Không phải tôi tin lời hắn hay gì cả, tôi chỉ muốn cậu…”
Chờ đã, hãy để tôi giới thiệu cho bạn về hắn ta, gã Đồ Tể. Copper K. Roger, con gấu xám, ngôi sao lớn trong vai Đồ Tể Đêm Đen, kẻ đã giết và treo xác bảy người lên trong đêm 27 tháng Sáu năm ngoái. Đến cả Hannibal Lecter¹ cũng chẳng thể giết nhiều người đến thế trong một ngày. Tôi đã có một vài cuộc phỏng vấn với Roger vài tuần sau khi hắn bị bắt vào trưa ngày 29.
"Tôi đã làm vậy” Roger nói trong khi nhìn tôi, tay hắn run rẩy khi châm điếu thuốc. "Tôi đã làm những điều khủng khiếp đó. Chúa ơi.”
Tất cả bắt đầu với việc ông Bennett, hàng xóm của hắn gọi điện đến 911 để nói về việc nhà hắn có những tiếng ồn lạ. Ông ta là nạn nhân thứ ba, sau vợ và con trai hắn.
"Ừm,” Tôi chỉnh lại chiếc máy ghi âm. "Và anh làm những điều đó theo lời của…”
"Ác mộng!” Hắn ngắt lời tôi, đôi mắt hắn như kẻ mất hồn. "Hắn tìm đến tôi trong những cơn ác mộng, thì thầm vào tai tôi những lời quỷ quyệt ấy. Tôi đã giết họ, nhưng đó là do hắn, TẤT CẢ LÀ DO HẮN!”
Chà, mười cách để tự bào chữa cho bản thân khi bị bắt vì tội giết người. Đầu tiên, hãy đổ lỗi cho một người bạn tưởng tượng.
"Tôi biết anh không tin tôi!” Roger trợn mắt. "Không ai tin tôi cả, nhưng đó là sự thật. Hãy cứ chờ đấy. Tất cả các người rồi sẽ thấy!”
(¹) Một nhân vật hư cấu nổi tiếng trong series truyện trinh thám kinh dị của Thomas Harris. Lecter được giới thiệu lần đầu vào năm 1981 trong cuốn tiểu thuyết kinh dị Red Dragon, là một bác sĩ tâm thần xuất sắc và là một kẻ ăn thịt và giết người hàng loạt.
Nói chuyện với một kẻ điên thường là vô ích, nhưng trong nhiều trường hợp, đặc biệt là khi chỉ một thông tin nhỏ nhoi về gã Đồ Tể Đêm Đen đã có thể chiếm trọn trang nhất tờ Nhật Báo Los Edenes, việc này bỗng nhiên trở nên quan trọng hơn tất thảy.
“Tôi tin anh mà, Coop.”
Hiển nhiên rồi, ai cũng tin lời một kẻ sát nhân với chứng hoang tưởng cả.
Roger chỉ ngồi đó, im lặng.
"Được rồi, Coop này, anh đồng ý gặp tôi vì anh muốn chia sẻ thông tin, đúng chứ? Và anh muốn mọi người đều biết đến điều đó, phải không nào? Nhưng làm sao mà tôi có thể viết bài về câu chuyện của anh nếu như anh cứ chỉ lặp lại những điều khó hiểu đó?”
Hiếm có kẻ giết người nào thẳng thắn thừa nhận rằng việc làm của chúng là sai trái, đa phần đều sẽ kể một câu chuyện dài dằng dặc với cái kết cuối cùng chỉ ra rằng chính chúng mới là nạn nhân. Người chết rồi thì không kể chuyện được nữa.
Phải mất một lúc im lặng trước khi tên sát nhân bắt đầu cất tiếng nói.
Nhưng rồi cũng chẳng đi đến đâu cả, Roger lại lảm nhảm câu chuyện mà hắn đã kể tôi nghe cả trăm lần trước đó. Nào là một gã ăn mày trên đường Lynch làm hắn mất ngủ, nào là một di tích dưới đáy biển sẽ được tìm thấy vào hè năm sau, rồi bão Mặt Trời, thảm họa hay gì đấy tương tự. Vân vân và mây mây… chỉ toàn là những lời vô nghĩa.
Tôi chẳng còn lạ mấy với những lời lẽ điên rồ đó. Nhưng, chỉ với một vài tinh chỉnh nhỏ, bớt một chút ở đây, thêm một vài cụm giật gân ở kia và voilà, trang nhất của số báo ngày mai đã sẵn sàng
"Vậy anh đang nói rằng…” Tôi hỏi khi cuối cùng Roger cũng nói chán chê. “Có một người từ những giấc mơ sai khiến anh làm những chuyện đó sao?”
"Từ giấc mơ!” Roger cười khẩy. "Sai khiến ư? Không đâu, hắn đưa mệnh lệnh vào thẳng trí óc tôi! Hắn không nói, hắn áp đặt ý chí của hắn lên tiềm thức của tôi! Những hình ảnh khủng khiếp đó cứ hiện ra trước mắt tôi, liên tục, liên tục, liên tục.”
"Được rồi… vậy cái người này, hắn ta có tên chứ?”
Mặt Roger tối sầm lại và tôi biết mình đã phạm phải một sai lầm.
"ĐỪNG CÓ NHẮC ĐẾN ĐIỀU ĐÓ!” Hắn ta gầm lên. “TẤT CẢ LŨ CHÚNG MÀY, RỒI CŨNG SẼ NHƯ TAO! HẮN SẼ ĐẾN TÌM CHÚNG MÀY.”
"Được rồi, bình tĩnh lại!”
"BÌNH TĨNH? TAO ĐANG RẤT BÌNH TĨNH!”
Mọi thứ sau đó thật hỗn loạn, phải cần đến ba viên sĩ quan để ghì chặt con gấu đó xuống bàn.
“Tôi chưa nói gì cả, làm ơn, tôi chưa nói gì cả!” Roger gào lên thảm thiết.
“Ra ngoài, ngay!” Một viên sĩ quan đã hét vào mặt tôi như vậy.
Cũng chẳng phải lần đầu tiên hắn nổi khùng giữa cuộc phỏng vấn, còn tận ít nhất là nửa năm nữa trước khi phiên tòa được mở ra và tôi sẽ còn vô số thời gian để viết một tự truyện về Đồ Tể Đêm Đen. Kẻ yếu đuối sau lớp mặt nạ sát nhân? - chà, Jerry sẽ thích cái tiêu đề đó. Los Edenes chưa bao giờ có một kẻ sát nhân tầm cỡ thế này, hắn sẽ còn được nhắc đến trong một khoảng thời gian dài.
Nhưng chẳng còn cuộc phỏng vấn nào nữa, bốn ngày sau, ngày 15 tháng Tám, Roger đã chết trong phòng giam. Con gấu xám, Đồ Tể Đêm Đen, Cooper K. Roger khét tiếng đã ra đi vì một cơn đau tim ở tuổi ba mươi hai. Vậy là hết, không còn phỏng vấn, không còn tự truyện, không còn phiên toà hay xét xử gì nữa. Đồ Tể Đêm Đen đã giết bảy người và chạy trốn về quên lãng. Dẫu cho có một vài tranh cãi về nghi thức cũng như động cơ của hắn nhưng chỉ vài tháng sau, cái tên Cooper K. Roger đã hoàn toàn chìm vào quên lãng.
“Billy?” Jerry lay vai tôi.
“Ừm, gì cơ?”
Đôi mắt nghiêm nghị của ông ta như muốn nhìn xoáy vào tâm trí tôi qua hàng mày rậm rạp.
“Cậu nghỉ nốt ngày hôm nay đi, cả một tuần kế nữa.”
“Nhưng còn bài báo-”
“Một tuần nghỉ có lương, không tranh cãi gì nữa.” Jerry quay lưng bước đi.
***
"I guess I'll never know the reason why”
"You love me as you do”
"That's the wonder”
"The wonder of you”
Hôm nay là thứ bảy rồi, và họ vẫn phát cái bản nhạc cũ rích đó.
"Buổi sáng tốt lành, đây là Edward Hall từ đài phát thanh Los Edenes. Hôm nay là một ngày thật đẹp trời, quả là…”
Tôi liếc nhìn đồng hồ, Bảy giờ bốn mươi ba phút. Họ vẫn thường phát sóng vào giờ này ư? Kỳ lạ thật.
“... cơn bão Mặt Trời sắp tới dự kiến sẽ phá hủy một phần cơ sở hạ tầng của chúng ta, đặc biệt… l-là trong… dự kiến…”
Ồ, thật tuyệt, chiếc radio của tôi hỏng trước cả khi cơn bão đó kịp đến. Ít nhất thì Mặt Trời cũng không thể nướng chín nó nữa.
“Billie Jean is not my lover”
“She just a girl who claims that I am the one” ¹
“Billie Jean” vang lên lần thứ mấy trong tuần rồi nhỉ? Tôi không đếm nữa. Có vẻ như MJ lại gây sốt với album mới nhất của mình từ hôm thứ Tư. Tôi ném bộ đồ bẩn thỉu của mình vào thùng rác, nhấc túi lên và buộc chặt lại. Tôi đã cố cứu chữa chiếc áo, nhưng dường như chẳng gì có thể tẩy được vết bẩn cứng đầu đó.
Tôi vặn nút chỉnh radio đổi kênh. Một đoạn quảng cáo khác lại vang lên, lặp lại nhiều đến mức chẳng còn mấy ý nghĩa.
Tôi ngó ra ngoài cửa sổ, Jimmy vẫn đang đi dạo với Ngài Gingles, con chó lông xù của anh ấy.
“Chào buổi sáng, Jimmy!” Tôi mở cửa sổ ra.
“Bill! Ngày mới thế nào rồi?”
Xã giao, người ta trao nhau những lời vô nghĩa chỉ để hỏi về những thứ chẳng có nhiều ý nghĩa hơn là mấy. Nhưng nó cũng là một cách để tỏ ra thiện chí và tôn trọng với người khác. Trong công việc của tôi, mọi người sẽ chịu khó kể tôi nghe nhiều hơn nếu họ nghĩ rằng tôi coi trọng mọi lời họ nói. Không phải ai cũng có thể kể một câu chuyện đủ thú vị, nhưng việc của tôi là biến những thứ nhàm chán trở nên thú vị hơn. Tôi cần một chút caffeine. Tất nhiên, sau khi ném chiếc túi này vào cái thùng rác lớn ở góc đường 25
Lại một ngày tuyệt đẹp nữa của Los Edenes, thành phố biển. Tôi đi bộ dọc theo đại lộ số 3 trong khi những tia nắng rực rỡ của California khiến cho nơi này trông thật tràn đầy sức sống, một vẻ ngoài hào nhoáng, đẹp đẽ và gọn gàng. Nắng làm cho những thứ bẩn thỉu nhất nhìn cũng không tệ đến thế.
Tôi dừng lại trước một đám đông nhốn nháo ở đầu đường 25.
(¹) Lời bài hát Billie Jean do cố ca sĩ nổi tiếng Michael Jackson sáng tác. Bài hát được phát hành vào 02/01/1983 qua album Thriller. Tuy nhiên, để phù hợp hơn với câu chuyện, tôi đã mạn phép đặt thứ Tư, 30/11/1983 là ngày phát hành của bài hát trong thế giới này.
Ba xe cảnh sát, hai người đứng ở trước cửa tòa nhà và có đến bảy người nữa vây quanh, một vài trong số họ đưa máy ảnh lên bấm lia lịa.
“Có chuyện gì thế?” Tôi bước đến và vỗ vai một tay phóng viên.
“Hả? Billy?” Anh ta quay lại, đó là James, phóng viên hiện trường của tòa soạn Los Edenes, tòa soạn của tôi.
“Ừ, có chuyện gì trong đó thế?”
“Tôi cũng không rõ chi tiết lắm, mấy tay cớm không cho ai vào trong cả. Nhưng hình như có án mạng, một người phụ nữ đã bị sát hại trong căn hộ của cô ấy. Anh cũng nhận được tin à?”
“Không, tôi đang được nghỉ, Jerry cho tôi tạm nghỉ một tuần.”
“Có chuyện gì vậy?”
“À, chẳng có gì đâu. Ông ấy nghĩ rằng tôi cần nghỉ ngơi, sạc lại năng lượng một chút. Mà họ có tìm được hung thủ không?”
“Chưa, cô ấy bị giết vào tối qua, có lẽ là do tư thù, căn hộ chẳng bị mất thứ gì cả. Hàng xóm xung quanh cũng chẳng ai hay biết về vụ án. Sáng nay bạn cùng phòng của cô ấy về mới phát hiện ra. Hiện trường máu me lắm, kẻ sát nhân chắc hẳn đã tắm máu trong đó.”
“Gì cơ?”
Tắm máu, có tên sát nhân nào tôi biết có sở thích tắm máu nhỉ.
“Kẻ sát nhân đã cắt cổ cô ấy trong bếp và treo cô ấy lên tường nhà, mấy gã hàng xóm bảo rằng máu ở khắp mọi nơi. Dù ai làm chuyện này, hắn không thể rời khỏi đây trong bộ dạng sạch sẽ được. Không sớm thì muộn họ cũng tìm được nhân chứng thôi. Mà anh đi đâu mà mang theo cái túi này vậy?”
“Ồ,” Tôi nhìn lại chiếc túi trên tay mình. “Chỉ đi đổ rác thôi.”
“Sớm thế này á?”
“Tối qua tôi về muộn mà.” Tôi vừa nói vừa bước tiếp. “Cố gắng nhé!”
Điều cuối cùng mà thành phố này cần là một tên điên có sở thích cứa cổ người khác. Điều này làm tôi nghĩ đến… phải rồi, chính hắn. Cooper K. Roger, gã đồ tể, con gấu lớn. Kẻ đã cắt cổ và treo xác nạn nhân lên tường. Tôi đoán là đám giết người thì thường chia sẻ chung sở thích với nhau. Bệnh hoạn.
Tôi ném túi rác của mình vào cái thùng kim loại cũ kỹ ở cuối đường. Vậy là xong, đáng lẽ ra tối qua đã là một tối tuyệt vời nếu như cô bồi đó không sơ ý mà làm đổ hết cả cốc siro dâu đó lên chiếc áo yêu thích của tôi.
Trở về căn hộ của mình, tôi vớ ngay lấy cái điện thoại bàn và bắt đầu quay số. Thoạt đầu chỉ có tiếng chuông, những hồi chuông dài, vô định và miên man như đang trôi về một nơi xa xăm nào đó.
Xa xăm, xa xăm, xa xăm.
Tâm trí tôi như một điểm mơ hồ, lơ lửng trong không trung, trôi về nơi tột cùng của quên lãng.
Quên đi, quên đi, quên đi.
“Phòng tin tức hiện trường.” Đầu dây bên kia nhấc máy.
“À, là tôi, Bill đây.”
“Billy? Có chuyện gì vậy?”
“Không có gì quá quan trọng đâu. Nhưng cậu có thể cho tôi thông tin về vụ án mới trên đường 25 không Tom?”
“Ừm, vụ sáng nay ấy hả? Nguồn tin của chúng ta cho biết rằng nạn nhân là Cindy Bush, 23 tuổi, làm bồi bàn tại quán Angel & Pete. Cô ta được nhìn thấy lần cuối cùng lúc mười giờ đêm qua tại chỗ làm, tức tối ngày mùng 3. Không ai biết gì thêm cho đến khi Cindy được tìm thấy vào sáng nay, trong tình trạng bị đóng đinh lên tường với một vết rạch sâu 2 phân rưỡi quanh cổ. Hung khí là một con dao bếp đã bị bỏ lại hiện trường, giờ cảnh sát đã đem nó đi giám định rồi. Cậu có định lên toà soạn hôm nay không đấy?”
“Gì cơ… không. Jerry cho tôi nghỉ mấy hôm rồi. Có nhân chứng hay nghi phạm nào không?”
“Thật á? Jerry mà cho cậu nghỉ á?”
“Ừ, khổ lắm. Cảnh sát có nhân chứng hay nghi phạm nào không?”
“Không, đến giờ họ vẫn chưa tìm được gì. Pháp y tin rằng cô ấy bị đóng đinh lên khi vẫn còn sống, ấy vậy mà hàng xóm xung quanh chẳng nghe thấy gì sất. Quái thật.”
“Giống vụ của TMB¹, cậu có nghĩ đây là trùng hợp không?”
“Gì cơ?”
(¹) Cách gọi tắt của cái tên The Midnight Butcher - Gã Đồ Tể Đêm Đen, theo phong cách báo chí hoặc điều tra Mỹ, tương tự như “BTK” (Bind, Torture, Kill) hay GSK (Golden State Killer).
“Nạn nhân đều bị đóng lên tường, chỉ khác là vụ này bị treo lên trước khi giết. Cậu nghĩ có khả năng đó là một kẻ bắt chước không?”
“Ý tôi là TMB nào cơ?”
“Đồ Tể Đêm Đen? Cooper K. Roger?”
“Được rồi Bill. Thứ nhất, cái tên đó còn không vần. Thứ hai, Jerry vừa la mắng om sòm vì cậu không đến chỗ làm đấy. Có chuyện gì vậy anh bạn?”
“Trời ạ, Tom. Vụ của Roger mới được có hơn nửa năm thôi mà?”
“Tôi không biết cậu đang nói cái gì đâu. Nhưng mà cậu nên xách mông tới đây ngay đi trước khi Jerry đá cậu ra đường, lần thứ ba trong tháng rồi đấy.”
“Đùa vui đấy, Tom.” Tôi nói trước khi dập máy.”
Tôi là những dòng chảy hỗn loạn của đại dương suy tư.
“Thưa anh?”
Tôi là chiếc Beetle giận dữ của Bundy. ¹
“Thưa anh?”
Tôi là cơn đói mãnh liệt của Vallejo. ²
“Thưa anh!”
“Hả?” Tôi giật mình nhìn lên.
“Chúng tôi sắp đóng cửa rồi, thưa anh?”
Tôi nhìn bảng tên của cô gái. Cindy - cô ấy thật dễ thương, mái tóc đỏ, ngắn và xoăn nhẹ nhàng. Đôi mắt đen, tròn cứ như chứa cả bầu trời sao. Thân hình cân đối, đầy đặn và… máu, cô ấy đẫm máu. Khuôn mặt đó trắng bệch, vô hồn và đẫm máu.
(¹) Tham chiếu tới Ted Bundy, kẻ sát nhân hàng loạt người Mỹ vào thập niên 1970, nổi tiếng với việc sử dụng chiếc Volkswagen Beetle màu nâu để tiếp cận và bắt cóc các nạn nhân.
(²) Tham chiếu tới thành phố Vallejo, California, Mỹ - nơi xảy ra một trong những vụ án đầu tiên của Zodiac Killer năm 1968.
Cindy ư? Phải rồi, là cô gái đó. Tôi đã uống ở Angels & Pete tối qua.
Tôi chộp lấy suy nghĩ đó. Tôi đã ở Angels & Pete tối qua… Tôi đã làm gì lúc đêm qua? Tôi cảm thấy mình đang tiến gần đến một điều gì đó quan trọng - một điều mà tôi cần phải biết, nhưng tôi lại chẳng có gì hơn về nó cả. Như một đám mây đen, nó trôi đi, phơi bày trước mắt tôi một ý nghĩ. Một ý nghĩ tôi không thể bỏ qua.
Tôi chạy như điên vào phòng làm việc của mình, lật tung những hộp hồ sơ. Năm 1982, tháng Sáu. Tôi kéo tập tài liệu dày bịch đó ra ngoài, ném lên mặt bàn. Tôi đang tìm kiếm hắn, Đồ Tể Đêm Đen, Cooper K. Roger, con gấu lớn, kẻ đã đồ sát bảy người chỉ trong một đêm ngắn ngủi. Sự cuồng nộ của Los Edenes.
Nhưng chẳng có gì cả, không một cái tên, không một tờ báo, không có phỏng vấn, không có băng ghi âm, không có bất kỳ ai bị cắt cổ đêm ngày 27 tháng Sáu năm 1982 cả. Hoàn toàn sạch sẽ.
“Tôi biết anh không tin tôi…” Tiếng rè rè từ chiếc radio vang lên từ phòng khách. “Không ai tin tôi cả, nhưng đó là sự thật…”
Một ý nghĩ lạnh lẽo lần toả khắp tâm trí tôi.
“Tất cả các người rồi sẽ thấy.”
Tôi là trái tim đang thổn thức đến loạn nhịp của Albert Fish. ¹
***
"I guess I'll never know the reason why”
"You love me as you do”
"That's the wonder”
"The wonder of you”
Hôm nay là thứ bảy rồi, và họ vẫn phát cái bản nhạc cũ rích đó.
"Buổi sáng tốt lành, đây là Edward Hall từ đài phát thanh Los Edenes. Hôm nay là một ngày thật đẹp trời, quả là…”
(¹) Hamilton Howard " Albert " Fish (1870 - 1936) là một kẻ giết người hàng loạt, hiếp dâm, quấy rối trẻ em và ăn thịt người ở Mỹ. Hắn đã thực hiện ít nhất ba vụ giết trẻ em từ tháng 7 năm 1924 đến tháng 6 năm 1928.
Tôi liếc nhìn đồng hồ. Sáu giờ ba mươi phút.
“...ông Allan Hoe, nhà khảo cổ học nổi tiếng dẫn đầu đoàn thám hiểm di tích Thái Dương mới đây đã qua đời do một cơn đau tim ở tuổi sáu mươi hai. Các cộng sự của ông…”
Tôi vặn nút đổi kênh. Một loạt những âm thanh nhiễu sóng vang lên, vặn xoắn lại với nhau một cách nhàu nhĩ.
Bên ngoài cửa sổ, Jimmy vẫn đang đi dạo với Ngài Gingles, con chó lông xù của anh ấy.
“Bill! Ngày mới thế nào rồi?” Anh ta cười toe toét
“Chào buổi sáng, Jimmy!” Tôi đóng cửa sổ lại.
Xã giao, người ta trao nhau những lời vô nghĩa chỉ để hỏi về những thứ chẳng có nhiều ý nghĩa hơn là mấy. Nhưng nó…
Có gì đó không đúng.
Tôi liếc qua căn hộ của mình, vẫn sạch sẽ, gọn gàng và ngăn nắp. Mở nắp thùng rác ra, tôi chẳng thấy gì ngoài một vài mẩu giấy vụn. Có gì đó rất sai ở đây.
“Billie Jean is not my lover”
“She just a girl who claims that I am the one”
Một cảm giác kinh sợ mơ hồ khẽ lướt qua trí óc tôi. MJ mới ra album từ thứ Tư… đúng chứ?
Tôi điên cuồng đạp cửa chạy ra hành lang, giật bung nắp của hòm để thư, tờ nhật báo nằm gọn trong chiếc túi nilon. Những lời dối trá được bài trí một cách đẹp đẽ, tinh tế như đang nhảy múa trên trang giấy. Nhưng tôi biết chắc, giữa những lời dối trá ấy phải có ít nhất một thứ là hiện thực.
NHẬT BÁO LOS EDENES
Gã Thợ Mộc Câm Lặng Lại Ra Tay Lần Nữa - Nạn Nhân Thứ Sáu Là Một Cảnh Sát.
Bài của Billy J. Watson.
Thứ Bảy, ngày 17 tháng Mười Hai, 1983.
Sophie Leonhard, nữ thám tử nổi tiếng, được phát hiện đã chết trong căn hộ riêng rạng sáng nay
Lực lượng cảnh sát thành phố xác nhận nạn nhân mới nhất trong chuỗi án mạng đột nhập là bà Sophie Leonhard, 47 tuổi, sĩ quan điều tra cao cấp của Los Edenes Department. Thi thể được tìm thấy vào lúc 1:14 sáng, tại khu chung cư Meridian số 43, đường Calvera.
Cảnh sát cho biết nạn nhân đã bị cố định lên tường khi vẫn còn sống, sau đó, bà đã bị sát hại một cách dã man bằng chính con dao bếp của mình. Cảnh sát không tìm thấy bất kỳ dấu hiệu chống cự, xâm nhập hay cưỡng bức nào. Đồng thời, không có âm thanh đáng ngờ nào được hàng xóm ghi nhận.
Đây là vụ giết người thứ sáu chỉ trong vòng hai tuần qua có dấu hiệu trùng khớp, đặc biệt là cách thức đột nhập hoàn toàn im lặng và những chiếc đinh kỳ dị được tìm thấy trên cơ thể các nạn nhân. Cảnh sát vẫn chưa tiết lộ danh sách nghi phạm hay động cơ khả dĩ. Tên sát nhân đã được giới truyền thông đặt biệt danh rộng rãi suốt nhiều ngày qua là “The Silent Carpenter”.
Ông Benjamin Cross, thanh tra trưởng Sở cảnh sát Los Edenes, khẳng định: “Chúng tôi đang làm việc không ngừng nghỉ. Việc một người như bà Leonhard lại trở thành nạn nhân chính là lời tuyên chiến với toàn thể Los Edenes Department. Chúng tôi sẽ dốc hết sức truy tìm kẻ sát nhân.”
Trong khi đó, các chuyên gia tội phạm học cảnh báo rằng việc lựa chọn nạn nhân có vẻ ngẫu nhiên với cách thức ra tay tàn bạo và liên tục, không thể loại trừ khả năng Los Edenes đang tiếp đón một kẻ sát nhân hàng loạt điên cuồng. Đặc biệt, với cách thức ra tay đang có dấu hiệu leo thang về mức độ bạo lực như hiện nay, chúng tôi khuyến cáo cư dân nên hạn chế ra ngoài khi trời tối và nâng cao các biện pháp an ninh.
Chi tiết thêm, phân tích hồ sơ vụ án và lời kêu gọi hợp tác của cảnh sát — xem trang A4, A5.
Tôi không biết điều gì đáng lo ngại hơn: việc một thằng điên chuyên đi đóng đinh người khác đã tung tăng được ba tuần nay rồi mà tôi vẫn không biết gì, hay là việc tên tôi đang ngồi chễm chệ ở phần tên tác giả bài báo đó.
Tôi là sự chối bỏ đến điên loạn của Roger.
"I guess I'll never know the reason why”
"You love me as you do”
"That's the wonder”
"The wonder of you”
Hôm nay là thứ bảy rồi, và họ vẫn phát cái bản nhạc…
“Này, Billy? BILLY?”
“Ờ, hả?” Tôi giật mình nhìn lên. Đó là Tom ở tòa soạn, tôi đang ở toà soạn.
“Cậu ổn chứ? Sáng nay cậu cứ như người mất hồn ấy?”
“Sáng nay?”
“Ừ… ý cậu là sao?”
“Bây giờ là mấy giờ rồi?”
“Đến giờ về rồi, anh bạn. Cậu làm sao thế?”
Tôi đứng phắt dậy khỏi ghế. Tôi đang ở tòa soạn, rõ ràng là thế. Trước mắt tôi là Tom, Mike, James và Joey. Tất cả đều đang nhìn tôi. Bên ngoài cửa sổ, những đám mây đỏ rực của chiều tà đang cuồn cuộn tụ lại với nhau và bắt đầu nở rộ ra như một bông hoa máu khổng lồ ở phía chân trời.
“Hôm nay là ngày bao nhiêu?”
“Cậu hỏi gì thế?”
“Mẹ kiếp, Tom. Hôm nay là ngày bao nhiêu?”
“Woa, bình tĩnh, bình tĩnh. Là ngày 17, được chưa?”
Ngày 17 tháng Mười Hai năm 1983. Tôi đang chờ đợi nó, nó phản ứng, một ký ức? Nhưng lại chẳng có gì cả, tôi còn không biết mình đã bỏ lỡ vào nhiêu ngày nữa. Đây có phải một câu đùa nhạt nhẽo nào đó về việc nhà du hành thời gian quên mất anh ta đến từ khi nào?
“Gã Thợ Mộc.” Tôi túm lấy vai của Tom. “Có thông tin nào không được đăng lên báo không?”
“Bill, tôi tưởng cậu mới là người phải biết chứ? Lúc nào mà cậu chẳng có mặt sớm nhất tại hiện trường. Cậu có nguồn tin ở sở cảnh sát à? Chia sẻ cho mọi người với chứ. Nhìn James kìa, cậu làm cậu ấy…”
Tôi là sự bất ngờ đến thiếu ngạc nhiên của Gacy.¹
Những phút cuối đời của Sophie Leonhard hiện ra trước mắt tôi như một loạt bốn bức ảnh.
(¹) John Wayne Gacy (1942 - 1994) là một kẻ giết người hàng loạt và tội phạm tình dục người Mỹ, kẻ đã hãm hiếp, tra tấn và sát hại ít nhất ba mươi ba thanh niên và bé trai từ năm 1972 đến năm 1978.
Ở tấm đầu tiên, cô ta mở cửa bước vào căn hộ sau một ngày thứ Sáu mệt mỏi. Kẻ lạ mặt túm lấy cô ấy từ phía sau, tiêm cho cô một liều Etorphine¹ đủ sức hạ gục cả một con voi vào cổ và cô đổ gục ra sàn.
Kế tiếp, cô ta bắt đầu bị đóng đinh lên tường, bốn chiếc đinh dị hợm, dài đến hơn ba mươi phân. Hai chiếc ở cổ tay, hai chiếc còn lại xuyên qua bả vai.
Bức thứ ba, kẻ giết người dùng một con dao và cắt đứt động mạch chủ của nạn nhân, máu trào ra thành một dòng suối nhỏ.
Và ở bức cuối cùng, khi Sophie Leonhard lừng danh, người đã hạ gục không biết bao nhiêu tên tội phạm, giờ đây không còn máu để chảy nữa lại bị tên Hung thủ đóng đinh vào hai tròng mắt. Những chiếc đinh xuyên thủng nhãn cầu và chọc xuyên qua xương sọ. Cú chốt hạ - chữ ký của hắn, Gã Thợ Mộc đóng cái đinh cuối cùng vào quan tài của nạn nhân, đục thủng một lỗ giữa trán. Cú ném 10 điểm của hắn.
“Tôi cần phải đi đây.” Vừa nói, tôi vừa với lấy chiếc áo khoác.
“Này!” Tom gọi với theo. “Chúng ta vẫn chưa…”
Ngoài đường, những tia nắng yếu ớt của buổi hoàng hôn đang kéo dài thêm cái bóng tối dơ bẩn của Los Edenes trên đại lộ số Năm. Con đường dài lê thê với hằng hà sa số các phương tiện qua lại mỗi ngày. Hàng ngàn người đã bước qua đây ngày hôm nay và chỉ một trong số họ là Gã Thợ Mộc Câm Lặng.
Tôi là hạt cát nhỏ bé trong sa mạc bao la.
Tôi rẽ phải ở nút giao số Hai, đi thêm bảy trăm feet nữa và đây rồi, đường Calvera hào nhoáng và sạch sẽ. Đây là nơi tầng lớp trung lưu của thành phố này sinh sống. Đường xá ngăn nắp, những tòa nhà cao tầng với các chi tiết cầu kỳ đến dư thừa, các ô cửa sổ xinh xắn cùng những tấm kính sáng bóng giờ đây như chìm dần trong thứ bóng tối dơ bẩn của đêm đen.
Vài chiếc xe cảnh sát đang đậu trước cửa một tòa chung cư. Chính là nó, số 43 đường Calvera.
“Một lão ăn mày gàn dở trên đường Lynch đã níu tay tôi lại vào ngày 26 tháng Năm. Từ hôm đó trở đi, tôi chẳng còn ngủ được mấy nữa.”
(¹) Etorphine (còn được gọi là M99) là một loại thuốc phiện bán tổng hợp, có tác dụng giảm đau/ an thần mạnh hơn morphine khoảng 1.000 đến 3.000 lần. Nó được sử dụng chủ yếu trong thú y để gây mê các loài động vật lớn. Có thể gây chết người với liều cực nhỏ.
Chờ đợi trong thang máy, tôi nghĩ về những lời mà Roger đã lảm nhảm trong cơn điên của hắn. Có khả năng nào cho một phần nhỏ trong số đó là sự thật không? Làm sao hắn có thể nhớ mãi một chi tiết nhỏ như vậy chứ?
Cuối hành lang không bóng người là một cánh cửa được chắn đầy băng hiện trường vàng vọt, một viên cảnh sát khác đang đứng gác trước cửa căn hộ.
“Chết tiệt.” Tôi lẩm bẩm.
Nếu không có người quen ở đây, chẳng đời nào tôi được phép vào hiện trường. Nếu đây chỉ là một nạn nhân bình thường, gã cớm đó có thể cho tôi vào dễ dàng với chỉ vài trăm đô. Nhưng đây lại là Leonhard, cảnh sát sẽ sôi lên vì vụ này, sẽ không có bất kỳ phút nào trong đêm nay và vài tuần nữa mà xe cớm không lượn đầy đường. Nhưng tôi thực sự cần xem hiện trường đó, những ký ức tôi có về Leonhard, chúng có phải sự thật không?
“Ờm, chào. Tôi là phóng viên Watson, Billy Watson.” Tôi nói với viên sĩ quan. “Tôi từng đưa tin về vụ ở cây cầu Ash Creek. Tôi… tôi còn được cấp phép vào hiện trường vụ ở Woodland hồi tháng tám nữa. Với cả… trung sĩ Morgan biết tôi đấy.”
“Trung sĩ Morgan có nói với tôi về anh không?” Tay cảnh sát nhướn mày đầy nghi ngờ.
“Tôi… ừm, tôi đoán là không nhưng…”
“Vậy thì anh đến đây làm gì?”
“Được rồi, nghe này. Sếp của anh biết tôi đấy, cứ… cứ gọi cho họ mà xem. Tôi cần vài chi tiết của hiện trường, để… để cho chắc chắn thôi. Nhưng nếu tôi không được vào, các báo sẽ đăng tin tràn lan theo cách mà sếp của anh sẽ không thích tý nào đâu. Chỉ là… cứ cho tôi vào đi, ít nhất thì các anh anh cũng có một tiếng nói chính xác trên mặt báo. Chỉ năm phút thôi và tôi sẽ không đụng vào cái gì cả. Làm ơn…”
“Tôi không thể cho anh vào hiện trường vụ án được, đi chỗ khác đi, ông bạn.”
“Được rồi, vậy… vậy thế này thì sao? Tôi có ở đây ba trăm đô. Chúng ta có thể…”
“Anh đang định đút lót cho tôi đấy à?” Viên sĩ quan cau mày, cái nhìn nghi ngờ của anh ta dần chuyển sang giận dữ. “Lượn đi, hoặc tôi sẽ gọi người đến đá anh ra khỏi đây đấy.”
Tôi là sự tuyệt vọng đến cùng cực của Charles Schmid.
“Billy?” Một giọng nói vang lên từ phía sau tôi. “Cậu làm gì ở đây vậy?”
“Harry?” Tôi quay lại. “Ôi, cảm ơn Chúa. Cậu có thể cho tôi vào hiện trường một chút được không?”
“Tôi tưởng cậu đã ở đây từ sớm rồi mà? Có chuyện gì nữa thế?”
“Ồ… chỉ là, tôi… tôi mới nghĩ ra vài điều thôi.”
“Cho anh ta mượn găng tay.” Harry hất hàm với viên sĩ quan và quay lại nhìn tôi. “Chỉ năm phút thôi đấy, Billy.”
Căn hộ của Leonhard ngập ngụa trong mùi tanh của máu khô - cái thứ mùi tựa như mùi của Kim loại rỉ sét đang xộc lên trong không khí lạnh buốt đầy chết chóc.
“Họ đã đưa cái xác đi từ trưa nay rồi. Cậu có thấy điều cậu cần tìm không?”
Tồi tệ hơn cả thế: có, nó ở khắp mọi nơi. Nơi này giống hệt như trong ký ức của tôi. Tôi đã thấy mọi khả năng ở đây, vết máu, những dấu vết đóng đinh trên tường, con dao, tất cả như hiện ra trước mắt tôi. Tất cả…
“Không,” Tôi đáp lời Harry. “Nó không có ở đây, có lẽ tôi đã sai rồi.”
“Này, Bill.” Anh ấy đặt tay lên vai tôi. “Cậu có thể đã rời ngành, nhưng Sophie vẫn bạn của chúng ta, đúng chứ? Nếu có gì tôi cần biết, xin hãy nói với tôi, nhé?”
“Ừm,... Cách thức vẫn giống hệt các vụ trước, đúng không?”
“Ừ, cô ấy bị đóng đinh lên tường trong khi vẫn còn sống. Thằng khốn bệnh hoạn.”
“Thế…” tôi ngập ngừng, tôi đang sợ hãi. Tôi sợ rằng nếu tôi nhận được câu trả lời, tôi sẽ không còn có thể chối bỏ sự thật được nữa. “Thế pháp y có tìm thấy gì trong các nạn nhân không, thuốc gây mê chẳng hạn?”
Ánh mắt Harry loé lên tia sáng của sự nghi ngờ, nhưng tôi không quan tâm. Những gì tôi cần bây giờ là một lời khẳng định chắc chắn, mặc kệ Harry muốn nghĩ gì thì nghĩ.
“Có.” Anh ta buông tay khỏi vai tôi. “Pháp y đã tìm thấy dư lượng Etorphine trong cơ thể cô ấy. Làm sao cậu biết, tôi đã nói với cậu à?”
“Ờm, tôi… tôi chỉ đoán vậy thôi.”
“Nhắc mới nhớ thì, cậu từng học hai năm ở trường y trước khi nhảy sang làm điều tra viên đúng chứ?”
“Ừ… chỉ là…”
“Cậu có tình cờ đoán được cách hắn đóng đinh lên tường mà không gây ra tiếng động nào không?” Harry nhìn xoáy vào mắt tôi. Tôi biết cái nhìn đó - cái nhìn mà chính tôi đã từng dùng cho các nghi phạm.
“Gì cơ, không…”
“Cậu biết gì không, Sophie từng nói với tôi rằng cô ấy có thể có một bước đột phá lớn trong điều tra, nhưng tất cả mới chỉ dừng ở suy đoán. Rằng cô ấy sẽ đi gặp nghi phạm của mình vào tối qua. Tôi chỉ đang nghĩ… có khả năng nhỏ nhoi nào đó, nghi phạm đó đã thành công thuyết phục cô ấy, và sau khi đã rũ bỏ sai lầm, cô đã mời hắn về nhà không? Để nói về chuyện của hai người bạn cũ?”
“Ồ…” Tôi hổn hển. “Tôi… tôi nghĩ tôi cần ra ngoài một chút.”
***
Tôi đi lang thang vô định trên con đường bao biển khi sau khi đêm đen đã sập xuống và con đường trải dài đến tít tắp chẳng còn mấy bóng người. Harry đã biết những gì? Có lẽ anh ta còn biết nhiều hơn cả tôi nữa. Tôi nghĩ về Roger, về những lời lẽ điên rồ của hắn. Cơn bão Mặt Trời đó, ắt hẳn nó đã ảnh hưởng tới tâm trí tôi.
Tôi là một nghệ sĩ nhào lộn, đang đi dọc theo sợi dây mỏng manh giữa hai bờ hỗn loạn của đại dương điên cuồng.
Sau lưng tôi là thành phố rực rỡ ánh đèn, phía xa kia, tôi có thể mơ hồ nghe thấy những giai điệu hỗn loạn của quán bar đêm. Nhưng trước mắt tôi thì lại chẳng có gì… chẳng gì lọt vào tầm mắt ngoài bóng tối của đêm đen vĩnh cửu, thứ bóng tối cổ xưa đã bao trùm lên cả vũ trụ. Và rồi âm thanh của quầy bar cũng xa dần, cứ như chỉ còn lại mình tôi nơi đó, lắng nghe tiếng sóng biển thì thầm tựa như những lời của một sinh thể đang mơ màng. Những ngọn gió phảng phất trên khuôn mặt tôi, mang theo mùi tanh tưởi, mằn mặn và lạnh lẽo, cứ như thể nó đã đi qua một nơi nào đó xa xôi, nơi những thứ con người chưa biết tới vẫn đang sống, đang hòa nhịp với đất trời cái nhịp thở đáng ghê tởm của chúng.
Tôi bất giác nghĩ về người bạn tưởng tượng của Roger, nếu như hắn có thật thì sao? Nếu như chính hắn đang thủ thỉ vào tai tôi những lời quỷ quyệt ấy ngay lúc này?
Mùi tanh của đại dương tràn ngập trong hơi thở, chẳng thể hiểu nổi do rong rêu, xác cá đang mục nát hay của một thứ gì còn kinh tởm hơn thế nữa. Tôi đưa mắt tìm tới đường chân trời, nhưng chẳng còn chân trời nào cả. Chỉ toàn là đêm đen, nơi biển nước và không gian hòa với nhau thành một thứ gì đó sâu thăm thẳm không bút nào tả xiết. Đến cả ánh trăng mới đây thôi dường như cũng đã bị nuốt chửng bởi màn đêm đen kỳ dị ngoài kia. Và trong chính cái bóng đêm ấy, một ý tưởng lạ đã tìm được đường tới với tâm trí tôi.
Tôi nghĩ về những dãy núi đá vôi quen thuộc ngoài kia khi Mặt Trời còn sáng tỏ. Chúng tựa như những khuôn mặt khổng lồ đang chìm dưới những cơn sóng, chỉ để lộ lên sống mũi hay một phần gò má quỷ dị của mình. Nhưng giờ đây, trong bóng đêm, không có núi, không có trời và không có cả Trăng. Chỉ còn có mình tôi và một trực giác trần trụi: có một thứ khổng lồ vô danh đang đứng trên mặt biển kia, vô hình, vô dạng, và nó biết rằng tôi đang nghĩ về nó.
Nó đang mời gọi tôi đến với sự điên loạn.
“Này!” Một gã nào đó va phải tôi. “Đi đứng cho cẩn thận vào chứ!”
“Anh không thấy sao?” Tôi vồ lấy tay hắn. “Nó ở ngoài kia, ngoài kia kìa!”
“Mẹ kiếp!” Gã gắt lên. “Mày đang phê đấy à?”
“Không! Không! Tôi đang tỉnh táo, tôi hoàn toàn tỉnh táo!”
“Buông ra, đồ điên.” Hắn nói khi rảo bước thật nhanh.
Nó đang mời gọi tôi đến với sự điên loạn.
Điên loạn.
Điên loạn.
Điên loạn.
Tôi sẽ mời gọi hắn đến với sự điên loạn, hệt như cách Roger đã làm với tôi.
…Và rồi, tôi ở đây, đứng trong căn hộ của mình. Sạch sẽ. Gọn gàng. Nhưng trên tay tôi là một đôi găng đen, và trên bàn… một mũi tiêm cùng lọ thủy tinh nhỏ: Immobilon. ¹
Tôi là hạt cát nhỏ bé trong sa mạc bao la.
Radio bật lên, méo mó, rồi tiếng nhạc quen thuộc tràn vào tai tôi:
"I guess I'll never know the reason why…”
Tôi lao tới điện thoại, quay số. Bàn tay run rẩy.
Một hồi chuông dài. Rồi một hồi nữa.
“Harry.” Đầu dây bên kia bắt máy.
“Harry! Đó-... đó là tôi. T-tất cả đều do tôi. Chúa ơi. Giúp tôi với, làm ơn!”
“Gì đấy, ai đang nói thế?”
“Là tôi, Bill. Harry, tôi cần phải thú tội. Đó là do tôi, thực sự là do tôi!”
“Billy? Bình tĩnh, trời ạ. Cậu nói cái gì thế?”
“Chính là tôi, tôi là Gã Thợ Mộc đó, tất cả là do tôi gây ra. Lạy Chúa.”
“Cậu đang nói cái quái gì thế? Gã thợ mộc nào cơ?”
“Mẹ kiếp, Harry. Tôi đã giết Sophie, là tôi! Tôi đã giết cô ấy!”
(¹) Immobilon: Tên thương mại của chế phẩm chứa Etorphine (M99) kết hợp với acepromazine. (Nếu đến đây bạn có thắc mắc thì đúng, tôi là một fan của Dexter.)
“Đùa vui đấy anh bạn. Sophie đang ngồi ở bàn đây đây này. Nghe này, nếu cậu không muốn đến dự tiệc thăng non của tôi thì không sao. Nhưng ít nhất thì cũng cho tôi một lý do tử tế đi chứ? Đừng có…”
Tôi chết lặng. Ống nghe rơi khỏi tay. Tiếng cười lẫn tiếng nhạc vọng ra từ đầu dây bên kia, hòa vào tiếng sóng xa xăm.
Tôi mở mắt.
Một ánh sáng lạnh lẽo lọt qua khung cửa. Tôi đang ngồi trong phòng họp của tòa soạn. Tom, Mike, James, Joey… tất cả nhìn tôi. Bên ngoài cửa sổ, những đám mây đỏ rực của chiều tà nở ra như bông hoa máu.
“Hôm nay là ngày bao nhiêu?”
“Ngày 17…” Tom đáp.
Tôi cảm thấy mình bị đẩy xuống một tầng sâu hơn trong giấc mơ.
Ngoài đường, bóng tối nuốt chửng Los Edenes. Tôi bước đến số 43 đường Calvera. Cảnh sát. Băng niêm phong. Harry đứng đó, ánh mắt lạ lẫm.
“Cậu lại đến muộn.” Anh ta chìa đôi găng. “Năm phút thôi, Billy.”
Mùi máu khô tràn ngập. Tường, vết đinh, vết cắt, mọi thứ đúng như trong ký ức tôi. Quá đúng.
“Pháp y tìm thấy Etorphine trong người cô ấy.” Harry nói. “Làm sao cậu biết?”
Tôi không trả lời.
Tôi lang thang trở lại bờ biển. Thành phố đã lùi xa. Bóng tối mênh mông trước mặt mở ra như một cánh cửa. Và tôi biết mình sẽ bước qua.
Và ánh Trăng, trăng tròn vằng vặc. Trăng trỗi dậy từ đêm đen, xua tan đi cái bóng tối dơ bẩn, phơi bày ra trước mắt tôi cái chân lý của sự thật, cái bóng bình hình thực sự của con quái vật ngoài xa kia. Ghê tởm và xấu xí nhưng chứa đầy sự mời gọi…
…Ngài mời gọi tôi đến với sự điên loạn.
Ánh trăng soi rọi tâm hồn tôi, qua đêm đen dài vĩnh cửu, trăng hiện lên - trắng trẻo và xa xăm, như một con mắt xa lạ của vị thần khổng lồ nào đó. Giờ đây, khi tôi cuối cùng cũng nhìn được xa hơn giọt nước của Newton, rồi chỉ để nhận ra đại dương mà ông nhắc đến còn vĩ đại hơn hơn mọi điều hạn hẹp tôi từng lầm tưởng.
Tôi sẽ đi! Tôi sẽ đến đó! Tôi sẽ hòa cùng với cái nhịp hoan ca của Thế Giới. Đắm chìm trong những điều tuyệt diệu của các Cổ Thần toàn năng.
Tôi sẽ đi.
***
“I guess I'll never know the reason why”
"You love me as you do”
"That's the wonder”
"The wonder of you”
Hôm nay là Chủ Nhật rồi, và họ vẫn phát cái bản nhạc cũ rích đó. Tôi mở bài báo buổi trưa ra.
NHẬT BÁO LOS EDENES
Gã Thợ Mộc Câm Lặng Ra Tay Liên Tiếp Trong Hai Ngày Qua.
Bài của Thomas W. Bush.
Chủ Nhật, ngày 18 tháng Mười Hai, 1983.
Billy J. Watson, nhà báo nổi tiếng của toà Nhật Báo Los Edenes được phát hiện đã chết trong căn hộ riêng rạng sáng nay…
“Leon!” Trung sĩ Morgan gắt lên với tôi. “Sở trả tiền cho cậu để làm việc, không phải để vắt chân lên bàn mà đọc báo!”
“Được rồi, Trung sĩ.” Tôi liệng tờ báo vào một góc. “Bên pháp y thu được gì rồi?”
…
Hết.
Vài lời giải thích về bối cảnh…
Nước Mỹ của thập niên 1980, một kỷ nguyên của những bảng đèn neon cháy sáng trên các đại lộ, tiếng guitar điện vọng ra từ quán bar khói thuốc, và những bản tin tối trực tiếp từ phòng tin tức, nơi tiếng máy đánh chữ hòa lẫn với tiếng radio phát nhạc của Presley, Jackson hay Springsteen. Thành phố nào cũng có những quán ăn mở suốt đêm, những con đường cao tốc trải dài vô tận và những tòa chung cư vách gạch đỏ chen chúc giữa các khu phố công nghiệp đã ngả màu mỏi mệt. Nhưng đây cũng là thời kỳ mà nước Mỹ bị ám ảnh bởi những cái tên in đậm trên trang nhất, những kẻ sát nhân hàng loạt, những vụ án máu lạnh khiến người dân vừa run sợ vừa tò mò. Báo chí và đài phát thanh sống nhờ vào nỗi hoảng loạn đó, thổi bùng lên từng tin đồn, từng biệt danh rùng rợn. Câu chuyện này được tôi lấy bối cảnh ở một thế giới giả tưởng, nơi một thành phố biển mang tên Los Edenes nằm ở bờ tây California thực sự tồn tại chứ không chỉ nằm trong miền mơ tưởng của tôi.
Nếu bạn vẫn chưa thể nắm bắt được những điều đã xảy ra, tôi gợi ý bạn nên chú ý kỹ các chi tiết có thể móc nối với các mốc thời gian, sau đây là một chuỗi các sự kiện được viết lại theo góc nhìn của một người đọc khác, người bạn của tôi. Cảm ơn tới BTH:
[T] Thực tại khả dĩ – những gì có thể đang xảy ra thật.
[A] Ảo giác/ký ức méo mó – do nhân vật hồi tưởng sai hoặc bị ảnh hưởng tâm trí.
[L] Lặp motif – các đoạn radio/lời bài hát xuất hiện như dấu hiệu lặp lại.
1. [T] Billy ở toà soạn, Jerry giao việc thể thao, nhưng Billy muốn theo vụ dưới đáy Thái Bình Dương.
2. [T] Hồi tưởng về Copper K. Roger (Gã Đồ Tể Đêm Đen), các cuộc phỏng vấn năm 1982.
3. [T/A?] Roger nói bị “một người trong mơ” điều khiển.
4. [T] Roger chết trong tù vì đau tim (15/8/1982).
5. [T] Jerry cho Billy nghỉ một tuần ở hiện tại (1983)
6. [L] Radio phát The Wonder of You - motif mở.
7. [T] Billy gặp vụ án mới: Cindy Bush bị giết (4/12/1983).
8. [T] Mô tả hiện trường qua lời phóng viên khác, chi tiết đóng đinh lên tường.
9. [T/A?] Billy nhớ đã gặp Cindy tối hôm trước ở quán bar.
10. [T] Gọi cho Tom để hỏi tin → Tom nói không nhớ gì về Roger (!).
11. [A] Billy lục hồ sơ về Roger nhưng không có dữ liệu nào chứng minh sự tồn tại của Roger, thực tại méo mó
12. [L] Lặp The Wonder of You + radio đưa tin Allan Hoe chết vì đau tim (giống hệt Roger)
13. [T] Billy thấy lại Jimmy dắt chó → sự kiện y hệt trước đó, báo hiệu loop.
14. [A] Lấy báo ra đọc: “Gã Thợ Mộc Câm Lặng” đã giết Sophie Leonhard (17/12/1983) và tác giả bài báo là Billy.
15. [T/A?] Mất định hướng: Billy đột nhiên lại đang ở toà soạn, hỏi hôm nay là ngày bao nhiêu →17/12.
16. [A] Hình ảnh bốn tấm ảnh cái chết của Sophie xuất hiện chi tiết, như thể Billy đã chứng kiến.
17. [T?] Billy tới hiện trường, bị cảnh sát chặn. Harry cho vào.
18. [T?] Xác nhận hiện trường y hệt “trong ký ức” Billy, pháp y tìm thấy Etorphine.
19. [A] Harry nghi ngờ Billy biết quá nhiều.
20. [T] Billy rời hiện trường, lang thang ra bờ biển.
21. [A?] Miêu tả biển đêm Lovecraftian → “thứ khổng lồ ngoài kia” mời gọi.
22. [A?] Cắt cảnh: Billy đứng trong căn hộ, có găng tay + Immobilon.
23. [A?] Gọi cho Harry thú tội → Harry bảo Sophie đang sống (!).
24. [A/L] Rơi vào vòng lặp: Billy tỉnh trong toà soạn, hỏi ngày → lại là 17/12.
25. [A] Lặp lại đi hiện trường Sophie với Harry.
26. [A] Lại ra biển, miêu tả ánh trăng như con mắt của Cổ Thần.
27. [T?/A] Mở báo ngày 18/12: Billy chết vì Gã Thợ Mộc, bài viết ký tên người khác.
28. [T?] Cảnh sát Leon đọc báo → chuyển điểm nhìn?
29. [?] Không xác định được Billy đã chết thật, bị mắc kẹt trong loop, hay là “đã đi” theo lời mời gọi của Cổ Thần.