Tháng 3 năm 1964, một người phụ nữ trẻ tuổi tên Kitty Genovese đã bị đâm đến chết trên một con phố ở New York. Vụ tấn công diễn ra trong hơn nửa giờ đồng hồ. Ít nhất 38 người chứng kiến vụ việc nhưng không một ai can thiệp. Cũng không ai báo cảnh sát. Tại sao không ai ra tay giúp đỡ cô ấy?
Có lẽ do sự thờ ơ hoặc lãnh đạm, có thể không muốn dính líu đến vụ việc hoặc thậm chí sợ kẻ tấn công. Một khả năng khác là, thực tế lúc đó có khá nhiều người cũng đang theo dõi vụ việc, nên người ta nghĩ có lẽ ai đó đã gọi cảnh sát hoặc chuẩn bị ra tay giúp đỡ người phụ nữ.
Phản ứng của các nhân chứng khi đối mặt với một sự kiện khủng khiếp như vậy đã thu hút sự quan tâm của các nhà tâm lý học xã hội người Mỹ John Darley và Bibb Latané, nên họ đã bắt đầu điều tra các yếu tố khiến mọi người chọn đứng ngoài cuộc.
Darley và Latané yêu cầu sinh viên đại học tham gia thảo luận về các vấn đề cá nhân. Mỗi người sẽ tham gia thảo luận trong một nhóm và các nhóm quy mô khác nhau. Mỗi sinh viên sẽ ở trong một phòng riêng biệt và giao tiếp thông qua micro và tai nghe. Đối tượng không biết rằng tất cả các giọng nói khác mà họ nghe được đã được ghi âm từ trước. Các đối tượng được biết người làm thí nghiệm sẽ đợi ở hành lang bên ngoài căn phòng trong khi các cuộc trò chuyện diễn ra.
Giọng nói đầu tiên được ghi âm sẽ thú nhận với cả nhóm rằng anh ấy đang gặp khó khăn trong việc thích nghi với cuộc sống thành thị và dễ gặp những cơn động kinh nghiêm trọng. Tùy thuộc vào quy mô của “nhóm”, những giọng nói khác cũng được phát lên, và đối tượng cũng lên tiếng trò chuyện. Sau đó, người lên tiếng đầu tiên lại một lần nữa nói rằng anh ta đang lên cơn động kinh, giọng nói lớn hơn và ngắt quãng hơn. Một âm thanh nghèn nghẹn vang lên, theo sau là sự im lặng chết người.
Hầu hết tất cả các đối tượng đều tin cơn động kinh có thật. Trong số những người nghĩ rằng họ là người duy nhất nghe thấy người kia lên cơn động kinh, 100% đã báo cáo về vụ việc, trong đó có 85% chạy ra hành lang trước khi “nạn nhân” ngừng nói. Trong số những đối tượng nghĩ rằng họ thuộc nhóm sáu người, chỉ 62% trong số họ báo cáo lại vụ việc.
Nhóm nghiên cứu đã chứng minh rằng tình trạng ít phản ứng với trường hợp khẩn cấp hơn so với cá nhân không chỉ xảy ra ở những người trong một nhóm, mà còn xảy ra ở những người chứng kiện sự việc. Càng nhiều người ngoài cuộc, càng ít khả năng sẽ có người đứng ra giúp đỡ.
Darley và Latané kết luận rằng khi chỉ có một người chứng kiến trường hợp khẩn cấp, thì đó là người duy nhất có thể trợ giúp, cũng là người duy nhất chịu áp lực buộc phải làm gì đó. Khi có nhiều người chứng kiến hơn, áp lực được phân tán và các cá nhân cho rằng sẽ có ai đó hành động thay mình; hoặc có thể họ lo rằng sự can thiệp của họ sẽ cản trở nỗ lực của những người có trình độ cao hơn.
Cre: Hạ Du - Gr Tâm Lý Học Tội Phạm