Những vụ ngoại tình diễn ra trong cung đình nước Việt, sử sách ghi chép rời rạc, nhưng kết nối lại cũng cho ta thấy được rằng thuộc về cảm xúc con người, nên việc tình riêng ấy, đối tượng thực đa dạng, và hầu như thời nào cũng có.
Thái hậu vương tơ
Dù mới 23 tuổi nhưng vì bệnh tật, năm Mậu Ngọ (1138), vua Lý Thần Tông băng hà, Lý Anh Tông (1138-1175) kế vị vua cha. Cảm Thánh phu nhân vợ vua quá cố, mẹ Anh Tông lúc ấy đương xuân. Chồng mất, con thơ dại, Cảm Thánh lúc này là Lê Thái hậu một mình cô quạnh. Thế rồi dần dà, bà bén hơi Đỗ Anh Vũ, viên quan có dung mạo đẹp đẽ trong triều, vụ ngoại tình diễn ra công nhiên nơi cung đình nhà Lý.
Đại Việt sử ký toàn thư cho biết năm Canh Thân (1140), Lê Thái hậu bổ Đỗ Anh Vũ làm Cung Điện lệnh tri nội ngoại sự quản lĩnh công việc trong và ngoài Đại Nội. Với chức ấy, họ Đỗ tiện bề tới lui nội cung, cùng Thái hậu tư thông khiến trong triều ngoài trấn ai cũng tỏ. Riêng Lê Thái hậu trong cơn say tình không giữ ý thì thôi, còn cho sửa cung Quảng Từ đẹp đẽ làm nơi gặp gỡ người tình. Thế nên ghi lại việc này, Đại Nam quốc sử diễn ca phê phán:
Anh Tông còn thuở xung nhân,
Đỗ Anh Vũ lấy ngoại thân lộng hành
Ra vào trong trướng, ngoài mành,
Cùng Lê Thái hậu có tình riêng chung.
Có người tình trợ lực, Đỗ Anh Vũ lên tới chức Thái úy, ngày càng trở nên hống hách. Thấy nguy cơ triều đình bị nhân tình của Thái hậu lũng đoạn, năm Canh Ngọ (1150), Điện tiền chỉ huy sứ Vũ Đái, Nguyễn Dương, Đàm Dĩ Mông… cùng hợp nhau tiêu diệt họ Đỗ. Anh Vũ bị cấm quân bắt trói. Việc đến tai Lê Thái hậu, bà liền sai người mang cơm rượu cho Anh Vũ, đút lót vàng cho Vũ Đái, thế nên tên loạn thần chưa bị giết ngay.
Sau đó vua Anh Tông xét án họ Đỗ. Ngặt nỗi vây cánh họ Đỗ khắp nơi trong triều nên án ra rất nhẹ, Anh Vũ chỉ bị biến làm Cảo điền nhi làm ruộng nhà nước. Việt sử diễn nghĩa chép: “Thái hậu lo lường lắm, khi không bày ra đại hội để mà đại xá tù đồ cho Anh Vũ được dự theo. Đại xá hoài hoài, Anh Vũ quả được tha, tha rồi bèn cho phục chức Thái úy phụ chính”, hắn tha hồ lộng hành, trả thù không ghê tay. Phải đến khi Anh Vũ chết việc mới yên, nhưng tai tiếng vụ ngoại tình mãi bị sử sách nghiêm phê, như lời Việt sử mông học ghi:
Mẹ vua là Lê Thị,
Dâm đãng đáng chê cười.
Thông dâm với Anh Vũ,
Thực trái đạo làm người.
Vẫn trong thời Lý, về sau chứng kiến vụ ngoại tình khác, và cũng vẫn là thái hậu với quan. Ấy là trường hợp Đỗ Thái hậu và Mạc Hiển Tích. Tích làm quan nhà Lý qua đường khoa hoạn. Ông uyên bác, thông minh, sau làm đến Thượng thư. Giỏi giang, danh vọng, làm quan đại thần trải 4 đời vua Lý, nhưng cuối đời Mạc Hiển Tích lại vướng vào mối tư tình với Chiêu Thiên Chí Lý Thái hậu Đỗ Thụy Châu, mẹ vua Lý Cao Tông.
Rúng động cung đình triều Lý: Thái hậu, công chúa cùng ngoại tình - Ảnh 1.
Những mối tình lén lút trong hậu cung không phải là hiếm. Ảnh minh họa.
Bấy giờ Cao Tông theo Việt sử lược ghi “tuổi còn non nớt, Hiển Tích tư thông với thái hậu, cho nên người đương thời sợ Hiển Tích”. Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1189), vua Lý Cao Tông tuổi 16, giao cho đình thần xử tội của Thiếu sư Mạc Hiển Tích. Các quan sợ uy thế quan họ Mạc nên xử nửa vời. Thái phó Ngô Lý Tín, Đô quan lang trung Lê Năng Trường xét việc Mạc Hiển Tích nhưng không dám truy cứu tội trạng đến nơi, chỉ bàn loanh quanh sự vụ rồi ỉm đi, không đề cập nữa. Người trong nước biết việc này, bèn làm thơ chế giễu:
Ngô phụ quốc thị Lan,
Lê đô quan thị Kích
Án nhất tụng Mạc Tích,
Đản cục tích nhi dĩ
Có nghĩa, ông phụ quốc họ Ngô và ông đô quan họ Lê là hai người điên, xét có mỗi vụ kiện Mạc Hiển Tích mà rốt cuộc chỉ có sợ hãi thôi. Ngô Phụ Quốc tức là Ngô Lý Tín làm phụ chánh nghĩa là làm việc giúp đỡ ấu chúa trông coi việc nước. Lê Đô quan tức là Lê Năng Trường.
Các quan xét xử tội tư thông của Mạc Hiển Tích không được, vua Cao Tông lấy làm bực lắm nên tháng 3 năm Canh Tuất (1190) tự xuống chiếu đày Mạc Hiển Tích đến trại Quy Hóa mạn Đà giang.
Đến tình riêng công chúa
Cũng ở thời nhà Lý, chứng kiến hai vụ ngoại tình của một nàng công chúa. Ấy là công chúa Thiên Cực (thời Trần Kiến Gia Hoàng hậu Trần Thị Dung sau bị con rể là vua Trần Thái Tông giáng làm công chúa Thiên Cực, ta chú ý để phân biệt hai bà). Và chung cục cả hai nhân tình của nàng đều chết cả.
Nhà Lý để giữ yên vùng biên viễn, đã dùng chính sách “nhu viễn” thông qua hôn nhân, cho các công chúa kết duyên với tù trưởng các châu miền núi, qua đó tạo sự liên kết giữa chính quyền trung ương với các châu mục miền núi.
Nằm trong chính sách ấy, Việt sử lược chép việc năm Đinh Hợi (1167), “công chúa Thiên Cực gả về cho châu mục Lạng Châu là Hoài Trung hầu”, tức là Nội hầu Vương Thượng.
Lúc ấy nhằm thời vua Lý Cao Tông, theo Đại Việt sử ký tiền biên do loạn Quách Bốc nên vua phải chạy loạn khỏi Thăng Long năm Kỷ Tỵ (1209). Nhà vua sai Phạm Du đến Hồng Châu liên lạc với hào trưởng Đoàn Thượng để dẹp Quách Bốc. Khi Phạm Du qua Lạng Châu của nhà Thiên Cực, vẫn Việt sử lược ghi: “Gặp khi người Hồng Lộ (chỉ Đoàn Thượng) lại đón, đúng hẹn nhưng còn cùng công chúa Thiên Cực tư thông”. Sau trận mây mưa ấy, Du lỡ hẹn Đoàn Thượng rồi rơi vào tay Thái tử Sảm. Thái tử Sảm (Lý Huệ Tông sau này) không ưa Du bèn sai người giết đi.
Rúng động cung đình triều Lý: Thái hậu, công chúa cùng ngoại tình - Ảnh 2.
Mối tư tình giữa trai tài gái sắc đã có từ lâu trong các triều đại Việt Nam.
Sau lần tư tình với Phạm Du, Thiên Cực công chúa lại tiếp một vụ “mèo mả gà đồng” khác với Thái úy Tô Trung Từ. Một lần Thiên Cực cùng chồng về kinh trú tại đất Gia Lâm, nàng hay vào trong cung vấn an vua và thái hậu. Gặp Tô Trung Từ, hai kẻ liếc mắt đưa tình phải lòng nhau. Để rồi tháng 6 năm Tân Mùi (1211), nghe theo tiếng gọi ái tình, Tô Trung Từ ban đêm sang Gia Lâm tư thông cùng Thiên Cực. Khi cặp tình nhân đang say đắm thì Vương Thượng phát hiện. Tức giận bị cắm sừng, Vương Thượng rút gươm đâm, Tô Trung Từ chết tại chỗ. Vậy là mình nàng Thiên Cực khiến hai viên quan chết bởi lưới tình.