Chỉ còn một ngày nữa, một ngày nữa thôi, tôi có thể gọi người ấy là anh.
Tác giả: Chặt đầu gì chưa người đẹp?
Ngôn tình;Học đường
Những con chữ trôi qua mắt tôi như lá rụng. Tôi gấp sách lại vươn vai, ra sân.
Tôi chờ đợi ngày mai, ngày tôi là một cô thôn nữ. Cái ngày tôi có thể gọi người ấy là "anh".
Tôi không biết tôi đủ can đảm để nói ra từ đó hay không, nhưng tôi rất ghét trò viết lưu bút của đám bạn trong lớp. Tại sao phải viết lưu bút khi cả lũ chúng tôi sẽ vẫn ngày đêm bên nhau giữa đồng sâu nước trũng? Tôi cũng chẳng thấy cái thác liu riu cuối xã, xung quanh toàn cỏ dại, đẩy phân trâu và cỏ may, lại cần cho những bức ảnh màu kỹ thuật số của bác phó nháy trong chợ đến thế.
Rồi chúng tôi kéo nhau vào công ty môi thìa của người làng mở trong Nam, hoặc đi cấy đổi công. Cái thác chẳng biến đi đâu mà sợ.
Vài tháng trôi, cả lũ sẽ đen nhẻm, khét lẹt như đồng ruộng. Tôi săn chắc, nhanh nhẹn, gánh phăm phăm những gánh lúa trên bờ vùng bờ thửa, tưới nước, bón phân, nhổ cỏ, sẽ bớt gánh nặng công việc cho gia đình, nở nhiều nụ cười cho mọi người được vui.
Tôi không còn ái ngại đi tới trường, qua cánh đồng lấy nước ngập đến bụng con trâu, mà tay ôm cặp sách, áo trắng thơm. Tôi vui về ngày mai. Những cô cậu, trên đường làng, xô nhau chí choé, vô tình đẩy chúng tôi xuống ruộng làm bẹp những chiếc nón lá ngả màu, nhưng điều đó có ý nghĩa gì ghê gớm không, rồi đồng ruộng cũng đến lượt chúng nó thôi. Chúng tôi sẽ dạy chúng nó bài học cấy thẳng hàng.
Phong tục trong vùng là thế. Người ta chỉ trở lại ngôi trường cũ mười hay mười lăm năm sau đó, với tư cách là phụ huynh học sinh đến họp bàn về quỹ xây dựng trường, phát biểu rất hàng.
Tôi quay lại bàn học. Cố quên tất cả. Để học. Những dòng chữ trong vở, trong sách giáo khoa.
Tôi phải đỗ kỳ thi tốt nghiệp này.
Tôi nghe nói có những mối tình ngang trái giữa thấy giáo và học trò. Tôi không muốn chúng tôi là những kẻ ấy.Tôi sẽ chỉ yêu Chân Trời của tôi, khi tôi không còn ngồi trên cái ghế băng dài bằng gỗ bạch đàn nữa, khi tôi không còn đứng bảng trả bài tập nữa. Tôi tự hứa như thế, và tôi đã thực hiện lời hứa ấy, với chính mình.
Dù điều đó, trải qua những năm tháng, khó khăn biết bao! Nhưng nghĩ cho cùng, chúng tôi còn không ít những chuyện khó khăn hơn. Khi mùa đông lạnh giá, chúng tôi ngồi ngâm thóc giống trong nước ấm, từng hạt lúa, nhỏ nhoi và yếu ớt đến mức tôi chẳng còn có thể nghĩ về một điều gì khác.
Tôi biết người ấy đôi khi bị những cơn sốt rét, nhiễm từ hồi còn dạy trên miền núi cao, hành hạ. Người ấy nằm trong trạm xá, nơi có cô y sĩ đôi mắt bồ câu vẫn đặt bàn tay trắng búp mịn ơi là mịn lên trán người ấy rất lâu, đặt lên cả nơi trái tim của người ấy, trước mặt lũ chúng tôi. Cô y sĩ kia, cuối tuần lại đem sữa Ông Thọ lên cho người ấy. Cô ta đã án ngữ nơi đường chân trời của tôi. Chúng tôi, vài ba đứa, hằng ngày vẫn gầm ghè với nhau mỗi khi thấy hỏi thăm đứa này mà quên chào đứa khác, đã hùa vào với nhau, cứ cuối tuần lại lên ký túc xá hỏi bài thầy. Chúng tôi cố tỏ ra mình dốt nát thực sự, tuyệt vọng trước biển kiến thức vô bờ, nhưng sự ham học hỏi thì thực là vô hạn.Chả biết học trò các lứa khác có ích kỷ như thế không?Chúng tôi ra sức ngăn ngừa cái mối thiện cảm có thể xảy ra giữa hai người, dù, cũng chẳng tự nhiên cho lắm, khi nghĩ đôi chân mình còn dính bùn ban chiều.
Tôi đã viết những dòng nhật ký rồi giấu kín trong chum. Sau đó, đốt béng đi. Tôi chẳng bao giờ nhìn thấy cuốn nhật ký nào của mẹ, của chị. Tôi nghĩ đó là việc không nên làm. Hơn nữa trong nhà chẳng có chỗ nào dành để cất nhật ký. Mẹ tôi lâu lâu lại lục tung chum vại dù biết chúng chẳng có gì.
Người ấy cũng là thầy giáo của chị tôi. Tôi đoán chị tôi học rất dốt vì thế mỗi lần thấy đến thăm nhà chị liền chạy núp sau đống rơm. Thầy nhìn thấy ảnh chị tôi và các bạn đứng bên thác nước, hỏi chị tôi đi làm công ty môi thìa rồi à. Tôi bảo vâng ạ, chị tôi dặn như thế.
Thấy có quen với bố tôi. Bố tôi trường họ, giỏi chữ Hán.
Bố bảo với thầy:
-Thầy mà ở lại làng tôi, làng tôi có diễm phúc lắm!
Thầy không nói gì. Bố tôi viết tặng thầy một đôi câu đối. Thấy rất trân trọng.
Một lần tôi ốm, thầy phá lệ không đi cùng lớp mà đến một mình. Thấy mua cho tôi bảy quả cam. Tôi sung sướng không dám ăn, cứ nhìn ngắm suốt ngày cho đến khi chúng nó héo khô.
Thấy ngồi bên giường, đặt tay lên trán tôi, đùa bảo:
-Có lẽ các con chữ đang đánh nhau đấy.
Tôi cũng cười. Tôi chỉ muốn ốm mãi. Lần đầu tiên trong đời có một người đến thăm, cho cam, và đặt tay lên trán, nhìn tôi cười hiền hậu. Tại sao tôi không mơ được ốm mãi?
Tôi rất thích phong cách sống của người ấy, dù tôi đã chỉ cầu trời cho đừng ai nhìn thấy cái cảnh tôi ốm đau kiểu lạ đời như thế.
Bố tôi về, hai người ngồi uống trà. Bố tôi bảo:
-Thầy ở lại với làng tôi nhé. Cụ tổ nhà tôi ngày xưa làm nghề bán thuốc dạo, đến đây gặp phong cảnh hữu tình con người xinh đẹp, quyết lập nghiệp với dân làng. Qua bao đời, thành tựu rất hiển hách!
Thầy không nói gì, ngồi trầm lặng, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn xem tôi có bị sốt nữa không. Điều đó làm cho gia đình chúng tôi rất cảm kích.
Môn thi buổi chiều của chúng tôi khá lộn xộn. Cuối đợt thi, ai cũng mệt, bài từ ngoài ném vào lung tung. Có đứa còn dùng súng cao su bắn bài giải vào, đốp đốp, rất kinh. Người nhà nóng ruột trèo lên cành cây cao để nhìn vào, kín cả cây, chúng tôi ngồi trong phòng thi lo quá, run, không tập trung được.
Vùng chúng tôi có lệ, con cái đi thi, anh em họ hàng bỏ hết cả ruộng vườn để động viên cổ vũ. Chúng tôi biết lắm khi bài giải ở ngoài ném vào sai bét cả. Người đi quẳng bài vào, càng chẳng biết cái gì. Nhưng mà không ngăn được. Bên ngoài cứ chạy như choi choi, gọi tên chúng tôi, lôi tên cúng cơm ở nhà ra mà gọi, ngượng ơi là ngượng.
Có người còn chửi bới các thầy và giám thị, rút côn nhị khúc ra múa, thật xấu hổ quá đi mất.
Tôi học kỹ, làm bài tốt, không ngó ngàng gì đám lời giải bọc đã ngoài ném vào.
Tôi nghĩ có ai đó nhìn tôi làm bài, biết tôi làm xong và rất vui. Tôi nhìn ra ngoài: Người ấy! Người ấy. Tôi có thể gọi như thế được không, khi tôi đã chấm hết cuộc đời học trò của mình xuống tờ giấy thi chi chít chữ?
Tôi nộp bài, bước ra ngoài. Tôi đi thẳng đến chỗ người ấy, dưới gốc cây gạo vô cùng quen thuộc với tất cả chúng tôi.
-Em chào anh ạ.
Tôi sẽ nói như thế. Rất nhỏ thôi. Với người ấy. Và khuôn mặt tôi sẽ đỏ bừng lên cho mà xem. Tôi sẽ nói:
"Em làm bài rất tốt anh ạ".
-Thế nào, cô bé! Mười điểm chứ?
Thật bất ngờ và hoàn toàn ngoài kịch bản, người ấy, Chân Trời của tôi, lại cất tiếng trước! Tôi chưa hình dung trường hợp này. Tôi không nghĩ người ấy gọi tôi là “cô bé”. Chưa ai gọi tôi là “cô bé” cả. Làng tôi chẳng ai gọi nhau như thế. Gọi như vậy, là có ý gì? Tôi đã lớn hay còn là một đứa trẻ? Tôi chịu, không biết phải ứng xử thế nào. Ấp úng mãi, cuối cùng mới cất được nên lời:
-9 rồi thấy ạ.
Rồi vừa đi vừa chạy về phía chị tôi, bố tôi.
Đi cùng bố và chị là thằng Hoàn. Nó học trước tôi một khoá, năm ngoái đỗ tốt nghiệp loại trung bình. Nhà nó cách nhà tôi hai ngõ râm bụt. Bây giờ nó đã có việc làm ở lò gạch, lái xe công nông.
Nó bảo:
-Chào! Đã trở về với họ hàng Đồng Thị Lúa.
Tôi muốn tức điên lên. Tôi bảo:
-Người gì mà vô duyên như cái xe của ông!
Cả nhà chúng tôi và nó ngồi trên chiếc công nông móp, nổ máy rung cả một lượt, phả khói mờ mịt, chạy về làng.
Tôi thực không biết thằng Hoàn thích tôi hay thích chị tôi. Nó là đứa siêng năng, quần quật làm việc, nuôi một đàn em nhỏ. Nó được cái hay giúp người, nhưng vụng về trong chuyện ăn nói. Thỉnh thoảng nó sang nhà tôi lúc thi cấy giúp, khi lại bổ củi giùm. Nó nói một lúc, như rau muống gặp mưa, chả ai hiểu nó đang nói cái gì. Mẹ tôi hỏi:
-Mày thích đứa nào thì nói thẳng ra cho chúng nó còn biết.
Nó cười, lau mồ hôi, nửa đùa nửa thật, đáp:
-Cháu chả biết!
Thằng Hoàn sợ tôi nhưng lại thích nói chuyện với chị tôi. Nó thực là đứa khó hiểu. Hay trong hai chúng tôi, lấy được ai nó cũng vui? Nó đang đào đá, đóng gạch, tiết kiệm lương thực để chuẩn bị dựng nhà. Dựng nhà xong tất nhiên phải có cô vợ để trong đó. Nó nghĩ như vậy. Có điều ai cũng biết chắc là nó sẽ không dám nói dự tính ấy ra.
Nhà tôi neo người, nói thẳng ra, đang rất cần một người mạnh tay mạnh chân, bổ được củi, đánh nhau được với con trâu. Của tội, tôi và chị tôi đều ghét Hoàn. Chúng tôi không thích nó. Thế thôi. Vì sao, chúng tôi chả biết.
Hoàn phanh ngực, nó ngồi lái công nông, thở bằng miệng, sung sướng vì gió đồng thổi ào ào. Cứ như thể mình nó trên cái xe vậy. Bố tôi cười hỏi:
-Hoàn, mày đang chờ gì đấy?
Nó gào to:
-Thưa bác! Cháu đang chờ gạch sống!
Chúng tôi vô tình cùng ngóai lại nhìn nhà trường.Trên sân có người vẫn đứng theo dõi chúng tôi. Đó là Chân Trời của tôi. Người ấy vẫn đứng nguyên đó, không hề nhúc nhích dưới gốc cây gạo nhiều ma nhất vùng.
Chị tôi ghé tai:
-Sang năm anh ấy không dạy ở trường chúng mình nữa, sẽ chuyển về xuôi.
Tôi giật mình. Người gọi người ấy bằng anh đầu tiên lại chính là chị tôi. Tôi thở dài. Nhưng không giận. Chị có cái quyền ấy. Chị ra trường hai năm rồi.
Chiều tối mẹ nấu cơm, làm gà. Chị em chúng tôi nói chuyện vui vẻ. Chị biết khá nhiều về thấy, đó là kiến thức chị thu thập được sau hai năm rời khỏi mái trường. Thì ra người ấy đã đi dạy nhiều nơi, mỗi nơi dăm ba năm. Chẳng nơi nào cố định. Người ta không thể lập nghiệp được khi lâu lâu vẫn nhận những lá thư khẩn thiết của mẹ già từ quê hương. Hoá ra, với những ông giáo nay đấy sang trường này mai chạy chọt về trường kia, đường vợ con tử tức cũng có phần gian truân, nhiều khi không theo lòng mình được. Mẹ bảo thế.
Hoá ra chị tôi và chị Bổng y sĩ là bạn quen. Chị Bổng học hành cơ bản ở thành phố, nhìn đời sắc sảo lắm. Chị ấy bảo:
-Quý các thấy ở tính mô phạm mà ghét các thấy cũng tính mô phạm. Thà làm vợ anh khuyến nông mê đánh tá là còn hơn!
Nói thế thôi, chị ấy hơi bị hao Ông Thọ đấy!
Chị Bổng bảo:
-Thực ra, chúng ta chả thích cái ông thầy còm xanh rớt ấy đâu. Không thích một ông thấy cụ thể nào hết! Mà thích một cái con người, từ đâu đó đến đây, một kẻ có lương bổng ổn định, được kính trọng, một người có cái gì đó khác chúng ta.
Chị bảo thêm:
-Sang năm thấy khác mà xuôi về đến đây, lại khối em ốm tương tư. Chứng nào, tật ấy.
Tôi nghe chị nói thế, tôi chẳng biết chị có ám chỉ tôi không. Chẳng nhẽ chị biết chuyện thấy thăm và cho tôi bảy quả cam?
Chúng tôi thì chẳng bao giờ tin chị Bổng.
Chúng tôi chỉ tin một điều là “chị không tiếc sữa Ông Thọ!", thế thôi.
Chúng tôi ăn bữa cơm thong thả đầu tiên sau rất nhiều ngày vất vả, kẻ học người làm. Bố rất vui. Hai đứa chúng tôi đều trưởng thành đến nơi đến chốn. Bố bảo:
-Con trâu và bằng trung cấp, con chọn gì?.
Tôi sợ. Biết đâu vì thiếu sức lao động mà chúng tôi sẽ phải viện đến một người, như thẳng Hoàn chẳng hạn. Nó không yêu chị tôi đâu, nó sẽ vẫn chỉ yêu cái công nông móp thôi. Tôi còn suy nghĩ thêm xem có thi vào trường trung cấp nông lâm không, dù đã có người hứa giúp nếu bố tôi không tiếc đàn trâu.
Bố tôi thắp hương trên bàn thờ tổ, bảo:
-Ngày xưa đàn bà con gái trong họ không được đi học, tục lệ xưa là thế!
Rồi người hỏi:
-Chẳng biết cái đó có gọi là văn hoá truyền thống không nhỉ?.
Các cụ bà trong họ chúng tôi thấy đều không ai biết chữ của thánh hiến, khi qua đời, mỗ mả chôn lung tung sơ đồ chả có, thất lạc gần hết, không chiến tranh mà quá chiến tranh. Chỉ các cụ ông được xây mộ xây lăng. vẽ những con vật trông giữ nom thực là dữ tợn.
Bố chậc lưỡi bảo:
-Có người tưởng khôn, thế mà hoá dại". Rồi bố thở dài.
Mẹ tôi bảo:
-Nếu bố mà là đàn bà thì bố cũng mê mệt thấy rồi!
Chị giục tôi lên trường chào thấy kẻo mai thầy đi rồi.
Tôi ngại quá, bảo:
-Con mệt, con ở nhà.
Chị tôi bảo:
-Đi đi.
Tôi nằm nghe gió thổi từ đâu tới, như những bước chân. Đến rồi lại đi. Tôi nhìn qua giá sách, thấy nhớ bạn, nhớ mùi phấn, nhớ những buổi đi lao động cười nói thoả thuê, những ngày kiểm tra nhìn bài nhau dấm dúi thật buồn cười. Hồi cấp một, năm có vài đứa học dốt quả phải ở lại lớp. Tưởng nó sẽ tu chỉnh, chẳng dè chúng nó đều xấu hổ quá, bỏ học hết.
Thế là nhà trường phải đến nhà vận động hàng tháng trời, ra ruộng tìm cả trưa. Nó giận, không thèm mời nước. Sau chẳng mấy khi cho ở lại lớp nữa. Đánh bạn với nhau những mười hai năm, thật là quá cả họ hàng, trái khế bể năm. Những môn như hoá học, vật lý và toán, càng học lên cao thì nam càng giỏi. Ngay cả môn văn cũng thế. Nghiệm lại, chúng tôi có năng khiếu môn sinh học, nhất là kiến thức về các loại cây trồng, gia cầm.
Buồn quá, bảo mẹ:
-Mai gọi con dậy sớm.
Mẹ bảo:
-Nghỉ vài hôm. Dạo này vãn việc rồi.
Tôi đi ra ngoài vườn. Cây cam nhà tôi nhiều năm nay không có quả. Tôi thích nó có quả. Tôi thèm ăn cam quá. Trời đất kể cũng lạ, sinh ra giống cam, hơn cả thuốc bổ, chuyên dùng cho người ốm.
Tôi nhìn lên cao, sao đã mọc tự bao giờ. Rất có thể chúng cũng muốn được nhìn thấy người ấy trước khi người ấy chuyển về xuôi.
Con đường đến trường tối quá. Tôi ngại không muốn bật đèn pin. Cứ vấp lên vấp xuống. Nửa đi, nửa muốn về.
Tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện chồng con. Nghĩ làm gì cho mệt. Cái gì đến, sẽ đến. Mẹ tôi bảo thế. Lấy chồng là chuyện duyên số, không phải nghĩ. Bố tôi nói như vậy. Chị tôi cũng bảo:
-Bố mẹ gả tao cho ai cũng được, trừ thằng Hoàn.
Trường của tôi nằm trên đồi cao, những phòng học dưới rặng cây xoan. Hai cây gạo lớn chọc trời, chim vàng anh bay về vàng rực. Phong cảnh đẹp nhất vùng, lại rất sạch sẽ. Chúng tôi thường quét sân, nhổ cỏ, cấm tiệt các loại trâu bò không cho lai vãng.
Tôi phải trở lại nơi đó.
Bởi mai người ấy sẽ bỏ mà đi mãi mãi.
Tôi chưa nghĩ đến sự thiêu văng này.
Những cái làng quê của chúng tôi, không hay ở chỗ nào? Tại sao người ta cử đến dạy, dâm năm, lại chuyến đi, gọi là thời kỳ "bước đệm"?
Chất lượng đào tạo không khá nổi vì giáo viên mới quá nhiều. Xã phản ánh với phòng giáo dục:
-Xã chúng tôi... hầu như không có lấy nổi một em đỗ đại học.
Tôi không hiểu những làng quê khác thì ăn đứt làng tôi điểm nào? Làng tôi có đình, chùa, đường lát gạch năm ngoài, có dân quân, các cụ, các vãi, thác nước. Đủ cá. Mùa nào lúa ấy, vào hội cũng đánh cờ, chọi gà, biểu diễn văn nghệ.
Cái dở duy nhất của làng chúng tôi đấy chẳng qua là nó ở cửa ngõ của rừng núi, nơi chỉ cần một chữ ký nữa, một con dấu nữa, các thầy có thể kê cao gối ngủ dưới đồng bằng, và nghĩ cách tiếp cận với thành phố. Mọi người trong làng đều bảo vậy.
Chỉ mỗi một nhược điểm thế thôi: đứng trên ngọn núi cao nhất vùng, sẽ nhìn thấy đồng bằng, nhìn thấy con tàu xuyên Việt ngày đêm chạy không ngừng khiến các thấy như đứng ngồi trên đống lửa.
Người ấy sẽ đi ư?
Người ấy thậm chí không quay lại chào bố tôi lấy một câu ư?
Những người đàn bà, những cô thôn nữ của các làng quê dưới kia có cái gì đặc sắc? Họ gánh được nhiều lúa hơn, hát hay hơn?
Tôi thấy đôi mắt cay xè. Một cái gì đó bất công, rất bất công, đang diễn ra trên quê hương tôi, với mái trường của tôi, với chị tôi và tôi
Không. Tôi không muốn người ấy đi khỏi làng.
Bước chân tôi đi rất nhanh
Tôi vừa đi vừa chạy
-Anh!
Tôi gọi cái từ đó bao nhiêu lần. Ban đầu hơi khó gọi, nhưng rồi cũng sẽ quen thôi.
Tôi gọi nó lên từ trong sâu thẳm trái tim tôi.
Tôi vừa đi vừa chạy.
Khu ký túc vắng ngắt. Không có bóng điện nào cả.Cửa đã khoá, một cái ổ khóa mới, lạnh lùng.
Tôi đi xuống trạm xá. Tôi lội qua những vũng nước. Tôi chẳng nghĩ gì cả, cố đi cho thật nhanh, cố bước thật vững. Sáng mai tôi còn phải giúp mẹ chuyện đồng áng. Trạm xá đóng kín cửa.
-Chị Bổng ơi. Tôi gọi toáng lên. Chẳng ai trả lời.
Người ấy và chị Bồng đã ra đi! Tôi cảm thấy tức thở.
Những gì chúng tôi lờ mờ cảm nhận đã hiện ra rành rành.
Giữa người ấy và Bổng đã có một cái gì đó. Tất cả chúng tôi đều chỉ là là ngốc nghếch.
Tôi rũ rượi trở về. Là những bước chân trên con dê thân yêu của tôi, nơi tôi sẽ gắn bó suốt cuộc đời mình. Tôi trở về nhà, người nặng như chủ. Tôi đã bị ốm rồi. Người ấy không chỉ dạy Bổng tiếng Anh và Bổng không chỉ cho người ấy sữa Ông Thọ..
Tôi chưa hề nghĩ rằng ngày cuối cùng của đời học sinh lại như thế này.
Thú thực tôi không biết phải gọi người ấy là gì nữa.
Nhưng một điều thật khó nghĩ cho tôi, nhưng là một sự kết thúc có hậu nhất trong cuộc đời học sinh bé bỏng của tôi, đấy là khi về đến nhà tôi thấy chị Bổng nằm dài trên phản, cạnh chị tôi, nước mắt lưng tròng!! Đứng quanh tấm phản là mấy đứa bạn trong lớp tôi, mất chúng cũng đỏ hoe nom như là đang cố bắt chước người lớn vậy.
____________________________________