[BL] Con tàu về đêm
Tác giả: bò né
BL;Gia đình
Anh ơi! Trời thu dừng chân lại giữa biển
Như đời mình vướng lại một mối duyên!
Con thuyền xa, sóng xô vồ sóng nắng
Đêm vắng lặng, ấm nồng chuyện đôi ta.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Đã lâu rồi tôi chưa có dịp về quê, hiện tại tôi đang là sinh viện đại học năm cuối, tôi lưu lạc trên đây ba năm rồi, tôi phải đi làm thêm phụ bán cofe để lo tiền học phí vì bà tôi dưới quê không đủ để lo khoảng phí giúp tôi, cha tôi đi làm xa thi thoảng gửi tiền về nhưng cũng chả được bao nhiêu, mẹ thì đã bỏ đi cùng người đàn ông khác sáu năm rồi...
- Quê tôi là Hạ Ôn Lương, là một làng chài tam diện đối hải, giáp biển dài từ Bắc xuống Nam, người dân nghèo làm nghề cá chủ yếu, cơ sở vật chất nghèo nàn, chỉ có một trường tiểu học nhỏ tồi tàn dưới duyên hải phía Nam.
Bao nhiêu năm đèn sách, tôi chỉ mang một ước mơ nhỏ nhoi là đỗ đại học, trở về quê để làm một giáo viên trung học để phát triển quê hương của mình, tôi lại phải gánh thêm một áp lực vô hình từ bà của mình là khi trở về, phải dẫn theo cháu dâu cho bà.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Một chủ nhật chiều, tôi đang ở lại trên quán Coffee để chuẩn bị dọn dẹp quán, hôm nay có vẻ ảm đạm, thời tiết không tốt lắm,tôi chống cằm vờ vẫn nhìn ra ngoài mặt lộ, quán Coffee này nằm giữa trung tâm thành phố, gần sát ngã tư và phố đi bộ, nhìn ra có thể thấy dòng người vội vã, tấp nập ngoài kia...
Một vị nam khách ghé vào quán, lưng đeo một chiếc balo có vẻ rất nhiều đồ, bước lên tầng hai ngồi bàn sát ban công...
- cho tôi một socola sữa ít đường!
Tôi giật mình, đứng lên vội vàng
- ah..anh vừa gọi gì vậy ạ, tôi quên mất!
Anh ta úp hai tay chống cằm nhìn về phía tôi.
- socola sữa ít đường cho tôi.
Tôi căng thẳng quá rồi nhỉ? À tôi không bận tâm điều đó đâu, đầu óc tôi hơi mơ hồ thôi, mà sao uống socola sữa lại ít đường vậy chứ? Thật kì lạ.
Tôi mang lên cho khách dùng, tôi hi vọng anh ta về sớm tại tiệm sắp đóng cửa và anh ta có thể là vị khách cuối cùng trong hôm nay. Tôi đưa tách socola sữa nóng đặt trước mặt anh ta, thấy anh mãi nhìn ra ban công, nhìn xuống dòng xe cộ tấp nập ấy, tôi nghẹn ngào hỏi
- có việc gì làm anh bận tâm sao?
Anh ta đổi ánh mắt sắt bén nhìn tôi, đáp
- không gì đâu.
Ánh mắt anh ta làm tôi như lỡ một nhịp, tôi lùi lại đôi chút, sợ hãi hơi gục đầu xuống.
- xin lỗi làm phiền anh, tôi đi đây!
- chờ đã!
Tôi đi được vài bước, anh ta gọi tôi lại
- anh cần gì nữa à?
- không, nhưng làm phiền anh chút được không
- À..ah anh có việc gì không
Tôi bối rối, anh ta hỏi
- còn mình anh ở lại quán sao? Anh ngồi lại với tôi đi.
- quán decor ban công đẹp thật, cảm giác có nhiều cây xanh thật thư giãn
Anh ta vừa nói vừa nhìn ra ban công, lại nhìn xuống dòng xe cộ tấp nập phía dưới khé cười, khuôn mặt buồn như muốn nói điều gì đó, tôi ngồi đối diện anh, ngượng hỏi.
- Anh đang buồn sao?
Không gian vắng lặng ập tới, như ghẹt thở, chỉ còn tôi và anh ta, im lặng đến sợ hãi.
Anh ta đứng dạy, đặt tách socola xuống, làm tôi giật mình, hoàn hồn lại, anh ta đi tới trước ban công, tay vịn trên lang cang, trầm giọng
- Thực sự thì nơi tôi sống không có nhiều xe cộ đông đúc như vầy, hết tuần sau tôi lại phải về nên tôi muốn tranh thủ thời gian tận hưởng cái đẹp nơi này.
Tôi bất chợt hỏi
- Anh chưa có người yêu phải không?
Anh nhìn về phía tôi, gạt đi ánh mắt lạnh lùng, nhẹ nhàng cười đáp
- Hiện tại tôi chưa, mà tôi cũng chưa nghĩ tới việc đó đâu!
- mà, anh còn đi học sao?
- à vâng, tôi đang là sinh viên cuối cấp, tôi phải đi làm thêm ở đây để đóng học phí
Tôi hơi ngại khi nói ra điều này, tôi thầm nghĩ anh ta tử tế vậy sao, anh ấy cũng đẹp trai thật, chắc cũng tầm 30 hay 32 tuổi gì đó.
Tôi thấy trộm được tấm thẻ nhân viên của anh ấy vắt trên balo, Hứa Lương Tri sao?
Tên anh ta đẹp nhỉ
- Anh làm nhân viên văn phòng sao?
Anh ta thấy tôi nhìn vào tấm thẻ nhân viên, bật cười
- À, tôi làm ở tập đoàn "Hoa Thị" công ty về kinh tế, cách đây một con phố.
- Công việc anh ổn định sao lại muốn đi về quê chứ, mà quê anh ở đâu?
- Quê tôi là nơi tôi có một món nợ lớn, dù không phải là nơi tôi sinh ra nhưng lại là nơi tôi lớn lên, là một nơi xinh đẹp và biển đảo yên bình.
- Biển sao?
- Tôi dự định về đó ở chắc cũng lâu, với lại tôi cũng sẽ có việc làm khác, mà anh bận tâm điều đó à?
Tôi lúng túng trả lời
- À ah..tôi ư...Chỉ muốn hỏi thăm anh thôi!
Anh ta cười khẽ ngồi xuống
- Anh học ở Trường Sư Phạm gần đây đúng không?
Tôi bất ngờ đáp
- Đúng vậy, mà sao anh biết chứ?
- Tôi chỉ đoán thôi, mà cậu sống ở đâu? Trường đó nằm ngoài ngoại ô, đi từ đây cũng khoảng hai ba tiếng, dù là trường gần đây nhất, anh không mệt do cứ đi rồi lại về như vậy hoài sao?
- Thật ra nơi tôi sống ở chung cư cuối phố, cũng vài cây số à hong có xa!
- Hay anh về ở chỗ của tôi đi, tôi thấy anh cũng tội nghiệp, ở chỗ tôi dễ đi lại hơn
- Nhưng mà sao được, làm phiền anh, với lại tôi với anh cũng mới lần đầu gặp mà lại...
Cắt ngang lời tôi
- Anh đừng lo, hết tuần sau tôi về quê, ở đó cũng không ai ở, tôi cho cậu ở nhờ, không lấy phí hay công gì của cậu đâu
Đó là một căn nhà nhỏ nhưng đầy đủ tiện nghi, phòng ốc gọn gàng, hai tầng nằm sát mặt tiền ở ngoài con phố, cách xa chung cư nhưng lại gần trường của tôi; anh ta kể. Tôi cảm thấy anh ta thật tốt bụng nhưng tôi không mấy nghi ngờ lòng tốt của anh ta
Tách socola được dùng hết, anh đặt nhẹ xuống, vác balo lên tay đặt lên vai tôi
- Tranh thủ dọn dẹp rồi tôi đưa anh đi, tôi không lừa anh đâu. Mấy ngày sau tôi lại đến Socola anh pha ngon lắm đấy.
Tôi đỏ mặt, đúng lên
- Cảm ơn quý khách...!
- Thôi không đùa, tên anh là gì?
- Tôi...tôi là Hứa Kỳ Anh.
Sau buổi trò chuyện hôm đó, tôi dường như thân mật hơn với anh ta, và anh ta không hề có ý xấu, anh chăm chỉ, đi làm sớm lại còn biết nấu ăn khiến tôi thầm ngưỡng mộ anh ta.
Tôi dọn dẹp xong quán lúc hơn tám giờ tối, trời bắt đầu lất phất mưa. Anh đứng chờ tôi dưới mái hiên, tay cầm cây dù dáng anh nhìn thật đẹp, cao ráo vững chãi balo đeo sau lưng, dáng cao gầy lọt thỏ trong ánh đèn đường vàng nhạt.
– Tôi đưa anh về, đi bộ một đoạn rồi bắt taxi, nhà cũng không xa lắm đâu.
Tôi lưỡng lự. Dù đã đồng ý, nhưng khi đứng trước quyết định dọn đến ở nhà một người xa lạ – dù tử tế – lòng tôi vẫn có chút chộn rộn. Anh nhìn tôi như hiểu được, nhẹ giọng:
– Cứ xem như đây là một nơi trú mưa tạm thôi. Khi anh không muốn ở nữa, tôi cũng không giữ.
Tôi khẽ gật đầu.
Chiếc taxi chở chúng tôi xuyên qua vài con phố lớn. Gió mưa lướt ngang cửa kính, nhòe đi ánh đèn thành phố. Tôi không nói gì, chỉ liếc trộm anh vài lần. Anh không nhìn tôi, ánh mắt nhìn mông lung ra ngoài trời, đôi hàng mi dài khẽ rung như đang nghĩ điều gì xa xăm.
Khoảng hơn ba mươi phút sau, xe dừng lại trước một căn nhà hai tầng nhỏ, nằm khuất trong con hẻm yên tĩnh nhưng vẫn gần phố chính.
– Đây là nhà tôi. Cũ nhưng đủ dùng.
Tôi bước theo anh vào trong. Căn nhà giản dị nhưng gọn gàng. Phòng khách nhỏ, ánh đèn vàng dịu, trên bàn có một mô hình thuyền buồm đặt trong lọ thủy tinh. Chiếc lọ lặng lẽ phản chiếu bóng đèn phía trên như có chút ánh sáng của biển.
– Tôi làm nó hồi còn học cấp ba. Lúc đó nghĩ nếu sau này có nhà riêng, phải đặt nó ở nơi dễ nhìn thấy nhất.
Tôi gật nhẹ. Không hiểu sao, trong tim thấy dịu lại. Căn nhà tuy không sang trọng, nhưng có cảm giác rất… ấm.
Anh dẫn tôi lên tầng hai, mở cửa một căn phòng nhỏ.
– Phòng của anh đó. Tôi có dọn qua rồi, đồ đạc đơn giản, nếu thiếu gì thì bảo tôi.
– Anh… thật sự tốt với tôi quá…
Anh bật cười, quay lưng đi:
– Tôi chỉ không muốn thấy ai giống mình của ngày xưa thôi.
Tôi đứng đó, nhìn theo bóng lưng anh khuất dần nơi cầu thang.
Tiếng mưa vẫn tí tách rơi bên khung cửa sổ, ánh đèn hành lang hắt qua khe cửa một vệt sáng mỏng. Tôi ngồi xuống giường, nhìn lại căn phòng mới – nơi tôi không ngờ sẽ đến, trong hoàn cảnh không ai đoán trước.
Và tôi nghĩ về anh. Về nụ cười lặng lẽ. Về ánh mắt buồn sâu thẳm. Về lọ thuyền buồm giữa căn nhà nhỏ…
Trời vừa sẩm tối, những cơn gió heo may đầu thu lùa qua mái phố, vương mùi hương gỗ cũ và bụi cây ven đường. Tôi xách túi đồ lỉnh kỉnh bước theo sau anh – Hứa Lương Tri – người đàn ông mà tôi chỉ mới quen vài hôm nhưng đã như thể quen thuộc từ lâu lắm rồi.
Căn nhà anh ở, đúng như lời anh nói, nhỏ, gọn và ấm áp. Nằm ở góc một con phố yên tĩnh, hai tầng, mái ngói đen cũ kỹ, có cây phong nhỏ trước cửa, lá đỏ rực trong ánh chiều. Tôi nhìn lên ô cửa sổ tầng hai, nơi rèm trắng khẽ lay theo gió, lòng chợt bình yên lạ.
"Vào đi." – Anh mở cửa, rồi nhẹ nói, như không muốn phá vỡ sự yên ả xung quanh.
Trong nhà thoang thoảng mùi trà khô và hương quế. Nền gỗ kêu nhẹ dưới chân. Phòng khách được dọn dẹp gọn gàng, có một kệ sách, vài bức tranh phong cảnh treo tường và ánh đèn vàng dịu như ánh chiều tà. Tôi để túi xuống, khẽ nói:
"Anh sống một mình mà ngăn nắp quá."
"Anh ở một mình, nhưng không muốn cảm giác cô đơn. Nên mọi thứ đều phải sạch sẽ, để lòng không bừa bộn."
Tôi im lặng. Anh đưa tôi lên tầng hai, chỉ vào căn phòng nhỏ bên phải:
"Phòng này của em. Có sẵn bàn học, tủ đồ và cửa sổ. Nếu thiếu gì cứ nói anh."
Tôi bước vào. Căn phòng sáng sủa, có chăn ga thơm mùi nắng, góc bàn đặt một lọ thuỷ tinh... bên trong là một mô hình con thuyền buồm nhỏ. Tôi bước lại gần, chăm chú nhìn nó. Một chiếc thuyền mộc, cánh buồm trắng, lặng yên trôi giữa cát pha trong bình thuỷ tinh.
"Anh làm nó à?"
"Ừ. Để nhắc mình nhớ... dù cuộc đời có ra sao, thuyền vẫn nên có bến để quay về."
Tôi quay lại, bắt gặp ánh mắt anh. Lúc ấy, tôi không nói gì, nhưng lòng tôi bỗng chật kín một điều gì đó – như một thứ cảm xúc không tên, êm đềm và dịu dàng. Giữa lòng phố thị ồn ào, tôi không ngờ mình lại tìm thấy một nơi chốn như thế này – và một người như anh.
Đêm hôm đó, lần đầu tiên tôi ngủ thật sâu trong một căn phòng xa lạ. Ngoài kia, tiếng sóng biển từ ký ức quê nhà vẫn rì rào đâu đó trong giấc mơ.
Kỳ Anh vẫn chăm chú nhìn chiếc thuyền buồm nhỏ trong lọ thủy tinh đặt nơi đầu bàn, đôi mắt sáng lấp lánh phản chiếu ánh đèn vàng hắt xuống. Cậu nghiêng đầu, ánh mắt long lanh như con mèo nhỏ vừa tìm được món đồ chơi lạ. Khuôn mặt ngây thơ, nhẹ nhàng đến mức khiến lòng người mềm ra.
Đứng tựa vào khung cửa, Lương Tri lặng lẽ nhìn cậu. Ánh mắt ấy, dáng vẻ ấy… chợt kéo anh trở về một thời ký ức chẳng mấy êm đềm.
Năm đó, anh mới chỉ mười ba tuổi. Còn quá nhỏ để hiểu hết thế nào là mất mát. Thế nhưng biển cả không đợi người lớn lên mới dạy họ những bài học khốc liệt.
Hôm ấy, trời nổi gió từ sớm. Cha anh vẫn quyết định ra khơi cùng các ngư dân trong làng, bảo rằng "Chỉ mưa gió đầu mùa thôi, không sao đâu." Anh đã theo cha lên tàu, hào hứng như mọi lần, vì với anh, biển là nhà, là tự do. Nhưng không ai ngờ được, chỉ vài giờ sau, biển nổi bão lớn chưa từng thấy.
Sóng cao hơn cả thân tàu, gió thét gào như muốn xé rách bầu trời. Người la hét, thuyền lắc lư, nước biển tràn vào nhanh hơn người tát ra được. Trong khoảnh khắc cuối cùng trước khi con thuyền bị nhấn chìm, cha anh ôm lấy anh thật chặt và đẩy anh về phía mạn thuyền, hét to:
"Tri! Nhảy đi! Sống!"
Anh không kịp hiểu. Chỉ thấy thân thể mình bị đẩy văng ra, ngụp lặn giữa đại dương cuồng nộ. Ý thức lịm dần. Và rồi... là bóng đèn pha sáng chói lòa trong cơn mơ hồ, tiếng máy rì rầm, tiếng người gọi lớn. Một chiếc tàu tuần tra cảnh sát biển đã phát hiện và cứu anh vào phút cuối.
Cha anh và phần còn lại của con thuyền… mãi mãi nằm lại trong lòng biển.
Công tác điều tra bấy giờ phải khép lại vì bão quá lớn, không tìm thấy thêm gì. Chỉ còn một ngư dân già sống sót – ông đặt vào tay anh một lọ thủy tinh nhỏ đựng mô hình con thuyền cũ. “Bố cháu để lại… Lúc lên tàu, ông ấy vừa làm xong nó. Nói là để tặng cho Tri nếu chuyến này trở về bình an.”
Lương Tri siết chặt tay. Cảm giác lạnh nơi lòng bàn tay dường như vẫn còn đó.
Chiếc thuyền ấy từ đó đi theo anh đến mọi nơi, như một phần kí ức thiêng liêng không thể gỡ bỏ. Anh đã từng thề với lòng mình: "Lớn lên, mình sẽ trở thành một người lính biển. Để không ai phải chịu mất mát như mình."
Nhưng đời không phải lúc nào cũng đi theo lời hứa năm xưa. Giấc mơ hải quân dang dở vì sức khỏe yếu hậu tai nạn. Anh chuyển sang học kinh tế, chọn một lối đi khác, nhưng con tim thì vẫn hướng về biển cả…
Một giọng nói trong trẻo kéo anh khỏi những hồi tưởng:
“Chiếc thuyền này... có gì đặc biệt sao anh?” – Kỳ Anh xoay người lại, đôi mắt ánh lên sự hiếu kỳ xen lẫn trìu mến.
Lương Tri bước tới, ngồi xuống bên cạnh cậu. Tay anh nhẹ đặt lên lọ thủy tinh, mắt không rời khỏi nó.
“Nó là cả một phần tuổi thơ của anh. Và là thứ cuối cùng anh có... từ cha mình.”
Kỳ Anh im lặng. Một lúc lâu sau, cậu nhẹ đặt tay lên tay anh. Không nói gì, không hỏi gì thêm. Nhưng chính sự im lặng ấy, khiến anh cảm thấy... nhẹ nhõm lạ thường.
Bên ngoài, gió lại thổi nhẹ. Xa xa, có tiếng còi tàu vọng lại, như khúc hát ru của biển đêm…
Chiều hôm đó, trời thu thật đẹp. Nắng hanh vàng rải nhẹ trên từng tán lá phong đỏ rực. Gió không lạnh, chỉ vừa đủ để hai người bước cạnh nhau thấy dễ chịu. Công viên hôm nay đông người, nhưng giữa khung cảnh lãng mạn như bức tranh ấy, thế giới như chỉ còn lại Lương Tri và Kỳ Anh.
Hai người cứ thế bước đi dọc. Chiều hôm đó, trời thu thật đẹp. Nắng hanh vàng rải nhẹ trên từng tán lá phong đỏ rực. Gió không lạnh, chỉ vừa đủ để hai người bước cạnh nhau thấy dễ chịu. Công viên hôm nay đông người, nhưng giữa khung cảnh lãng mạn như bức tranh ấy, thế giới như chỉ còn lại Lương Tri và Kỳ Anh.
Hai người cứ thế bước đi dọc theo con đường lát đá, dưới chân là lá khô xào xạc. Kỳ Anh thi thoảng lại cúi xuống nhặt một chiếc lá đỏ thật đẹp, xoay xoay trong tay như đứa trẻ tìm thấy món đồ chơi mới.
– “Lá phong mùa này đẹp thật ha anh…” – Kỳ Anh cười nhẹ, mắt sáng rực như nắng sớm.
Lương Tri nhìn cậu một thoáng lâu, rồi khẽ gật đầu:
– “Ừ, đẹp thật. Nhưng còn thua một người.”
Kỳ Anh khựng lại, má hơi đỏ lên:
– “Anh nói cái gì vậy chứ…”
– “Anh nói... chiếc lá đó kìa.” – Lương Tri bật cười, chỉ vào chiếc lá trong tay Kỳ Anh.
Cả hai cùng phá lên cười. Không khí giữa họ nhẹ tênh như gió thu thoảng qua vai áo.
Dạo một vòng quanh hồ, Lương Tri bỗng rẽ vào một quầy xe nhỏ ven đường.
– “Chờ anh chút.”
Vài phút sau, anh quay lại với hai cốc giấy còn bốc khói nghi ngút. Hơi ngập ngừng, anh đưa một cốc cho Kỳ Anh:
– “Socola sữa, ít đường.”
– “Ơ… món này…”
– “Anh cũng ngạc nhiên đấy.” – Lương Tri cười, ánh mắt dõi về phía xa – “Không hiểu sao vừa thấy bảng hiệu là anh liền gọi món này… Dù bình thường anh không hay uống đồ ngọt.”
Họ cùng ngồi xuống băng ghế gỗ dưới một cây phong lớn. Ánh nắng xuyên qua kẽ lá, hắt lên mái tóc nâu của Kỳ Anh ánh cam dịu dàng. Cả hai cùng im lặng nhấm nháp vị socola – ấm nóng, đắng nhẹ nhưng thấm sâu.
– “Vị này… làm anh nhớ nhiều thứ.” – Lương Tri nói, giọng trầm xuống – “Đắng như cuộc đời anh từng trải qua. Nhưng... nhờ có những thứ ngọt lành xen vào, mà nó trở nên dễ uống hơn.”
Kỳ Anh nghiêng đầu nhìn anh, chờ anh kể tiếp.
– “Anh từng nghĩ mình chẳng còn gì sau cái ngày cha mất. Nhưng những người dân trong làng chài đã nuôi anh lớn, dạy anh cách cười, cách sống... Họ thương anh như con ruột. Nhờ họ... mà anh có thể đứng dậy.”
Anh khựng lại, tay siết nhẹ cốc giấy.
– “Rồi đến một ngày, anh gặp một bà cụ. Già lắm, nhưng mắt rất sáng, hay kể chuyện biển. Bà cứ ngồi trước hiên nhà mà đan áo, nói rằng đan để dành cho đứa cháu nội sau này. Bà từng cho anh ăn cơm mắm, dạy anh đan lưới cá. Anh quý bà lắm, vì bà giống mẹ, mà lại hiền như bà ngoại vậy. Anh vẫn luôn nghĩ mình nợ bà một lời cảm ơn.”
Lương Tri khẽ cười, đôi mắt ánh lên tia hoài niệm khi nhận cốc socola sữa từ tay người bán ven đường. Anh đưa một cốc cho Kỳ Anh, rồi cả hai tiếp tục đi chậm trên con đường phủ đầy lá phong đỏ.
"Anh thích socola sữa à?" – Kỳ Anh hỏi, tay đỡ nhẹ chiếc cốc còn bốc khói.
"Ừ," Lương Tri đáp, đưa mắt nhìn mặt hồ phía xa. "Vị đắng của socola, pha thêm chút ngọt dịu... giống cuộc đời anh lắm. Có những nỗi đau tưởng không vượt qua nổi, nhưng rồi lại được xoa dịu bởi những điều rất nhỏ... như ánh mắt người dân làng chài, hay bàn tay run rẩy của một bà lão cứ dúi cho anh túi cơm nguội mỗi chiều…"
Anh dừng lại một nhịp, giọng nhỏ hơn, ánh mắt đượm buồn.
"Bà ấy gọi anh là thằng nhỏ, lúc nào cũng lo anh đói... Ấm áp như thể anh có một người bà thật sự."
Kỳ Anh khựng lại, tim đập khẽ, một hình ảnh chợt thoáng qua tâm trí—bà mình cũng từng như thế, cũng gọi cậu là “thằng nhỏ”, cũng dúi cơm nguội vào tay cậu mỗi chiều… Cậu nhìn Lương Tri, không nói gì, chỉ mỉm cười khe khẽ:
“Nghe anh kể… thấy giống bà em lắm. Cũng hay dúi đồ ăn như vậy.”
Lương Tri cười nhẹ, không biết rằng người bà anh luôn mang ơn, thực ra… lại là người thân yêu nhất của người con trai đang đi bên cạnh anh lúc này.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Buổi sáng đầu tuần, nắng trải nhẹ trên từng mái ngói, con phố bỗng dịu dàng lạ thường như thể không còn vội vã. Hứa Kỳ Anh ngồi ở ghế phụ, tay ôm chiếc cặp sách cũ, ánh mắt còn ngái ngủ, nhưng vẫn lén liếc sang người đàn ông bên cạnh—người đang cầm lái với dáng vẻ điềm tĩnh và bình thản.
Hứa Lương Tri không vội vã. Anh lái xe chậm rãi, mắt khẽ lướt qua từng góc phố thân quen. Quán ăn nhỏ ở góc đường vẫn mở cửa sớm như mọi ngày, cây bàng đầu hẻm đã lốm đốm vàng. Nhưng có gì đó khác lạ trong anh—cảm giác vừa thân thuộc vừa xa lạ, như thể anh là một lữ khách, đang trở lại nơi từng gọi là nhà, nhưng mọi thứ trong lòng đã đổi thay.
“Hôm nay anh không đi làm sao?” – Kỳ Anh quay sang hỏi, giọng còn hơi khàn vì giấc ngủ chưa tan.
Lương Tri bật cười khẽ, không rời mắt khỏi con đường phía trước.
“Anh nghỉ phép một thời gian. Cũng không còn nhiều việc quan trọng.”
“Thật hiếm đấy, anh là kiểu người làm việc không nghỉ mà.”
Anh không trả lời ngay, chỉ nhàn nhạt đáp lại bằng một câu mơ hồ:
“Lần này về… anh có vài chuyện cần giải quyết. Có một dự án phát triển khu dân cư dưới quê, người ta mời anh tham gia.”
“Quê anh à?” – Kỳ Anh chớp mắt nhìn sang.
Lương Tri chỉ gật nhẹ, không nói thêm. Anh không muốn để cậu bận tâm, càng không muốn nhắc đến những con số, bản vẽ hay tranh chấp đất đai. Những điều đó không dành cho đôi mắt trong trẻo như mắt Kỳ Anh.
Anh lại liếc sang cậu. Kỳ Anh đang ngắm khung cảnh ngoài cửa sổ, nơi ánh sáng sớm xuyên qua những nhánh cây rung rinh trong gió. Gương mặt cậu nghiêng nghiêng, đôi môi khẽ mím lại như đang ngâm nga một giai điệu trong đầu. Lương Tri khẽ thở ra, trong lòng dâng lên một thứ cảm xúc lặng lẽ, không tên.
Chiếc xe chậm rãi dừng trước cổng trường.
“Tới rồi, học tốt nhé.”
Kỳ Anh nắm tay nắm cửa nhưng ngập ngừng:
“Anh có đón em về không?”
“Tất nhiên rồi.”
Cậu cười rạng rỡ, bước xuống xe, để lại mùi hương thoang thoảng của sáng sớm, của tuổi trẻ, của một điều gì đó dịu dàng mà anh đang sợ mình sẽ đánh mất, nếu như không giữ thật chặt.
Tan học, tôi lết tấm thân mỏi nhừ ra cổng trường. Hôm nay, đống tài liệu nhóm, bài thuyết trình, với lịch học dồn dập khiến đầu óc tôi như muốn bốc khói. Vừa bước ra khỏi cánh cổng trường, tôi đã thấy một dáng người quen thuộc đứng tựa vào xe bên đường—Hứa Lương Tri.
Anh vẫn là người đến sớm, áo sơ mi trắng xắn tay gọn gàng, đứng im lặng dưới nắng chiều nhẹ, như đang đợi điều gì đó… hoặc ai đó.
Tôi lập tức phấn chấn hẳn lên, hớn hở chạy lại, cả cơn mệt như bị bỏ quên đâu mất.
“Anh đợi lâu chưa?”
“Không, mới tới thôi.”
Anh mở cửa xe cho tôi, rồi bất ngờ chìa ra một ly nước mát lạnh.
“Cho em nè, uống chút cho tỉnh.”
Tôi nhận lấy, lắc nhẹ cái ly.
“Hồng trà sao? Anh không uống socola nữa à?”
Anh mỉm cười, khoé môi cong cong dịu dàng như thể đã đoán trước câu hỏi:
“Anh vẫn uống chứ. Chỉ sợ em ngán, nên đổi món thôi.”
Tôi nhấp một ngụm, mùi hồng trà dịu nhẹ, thoảng hương hoa quả. Tự dưng thấy tim mình hơi nhói, không phải vì trà nóng, mà vì cái quan tâm nhỏ bé ấy khiến tôi không biết phải giấu mặt đi đâu cho đỡ ngượng.
Xe lăn bánh, con đường chiều nay vàng hoe lá nắng. Tôi ngả đầu ra ghế, chưa kịp tận hưởng bao lâu thì điện thoại reo. Là bà tôi.
Tôi bắt máy, giọng bà vẫn vậy—ấm áp và hơi lạc quẻ một chút:
“Kỳ Anh đó hả? Sắp nghỉ dài ngày rồi, có về quê chơi không? Không vội đâu, nhưng nhớ phải dẫn theo cháu dâu của bà đấy nhé!”
Tôi nghẹn họng, miệng méo xệch.
“Bà… con đã bảo là chuyện đó…”
“Ờ thì bà chỉ nhắc vậy thôi. Mà bà nhớ con nhiều lắm đó nghen!”
Tôi cúp máy mà lòng chùng xuống. Câu “cháu dâu” ấy như gõ nhẹ vào đầu mình bằng một câu hỏi chưa bao giờ dám trả lời. Tôi chẳng thích cô gái nào cả. Chưa từng.
Lương Tri nhìn sang, khóe môi hơi nhếch như có chút trêu đùa.
“Sao? Bà gọi bắt ép em lấy vợ à?”
Tôi chẳng buồn giấu.
“Ừ…”
Anh nheo mắt, giọng vừa chậm vừa đều như thể đang thử nước:
“Chả lẽ… em thích con trai?”
Tôi quay ngoắt sang anh, tim như ngừng đập một nhịp. Trong đầu tôi trống rỗng hoàn toàn. Không kịp nghĩ. Không biết phản ứng sao. Câu hỏi ấy cứ vang mãi trong đầu, như một cái gì đó vừa được thốt lên, nhưng lại không dễ để gói gọn bằng một câu trả lời.
Bạn có muốn mình viết tiếp đoạn Kỳ Anh phản ứng thế nào hoặc đêm hôm đó hai người nói chuyện ra sao không? Mình rất vui được đồng hành với bạn qua từng đoạn truyện thế này!
Tôi ngồi yên, bàn tay siết nhẹ ly hồng trà, môi mím lại không biết nên cười, nên lảng đi hay nên nói thật lòng.
Gió nhẹ ngoài cửa sổ thổi qua làm tóc tôi rối một chút. Tôi không nhìn sang anh mà cứ nhìn xuống lòng bàn tay mình. Rồi lí nhí đáp, giọng nhỏ như gió thoảng:
“Em cũng không biết nữa…”
Chiếc xe vẫn lăn bánh chậm rãi, im lặng bao trùm. Tôi cảm thấy má mình nóng lên, rõ ràng là đang xấu hổ nhưng lại không biết tại sao.
Lương Tri không nói gì ngay, chỉ khe khẽ “ừm” một tiếng, trầm lặng mà không ép buộc.
“Thật ra… em cũng chưa từng thích ai. Con trai hay con gái gì cũng vậy. Chắc tại em chưa từng nghĩ đến.”
Tôi xoay xoay chiếc ly trong tay, giọng đều đều như thể đang nói chuyện với chính mình hơn là với anh.
“Nhưng mà… nếu có một người, khiến em thấy dễ chịu, thấy ấm áp, thấy muốn ở bên… thì chắc cũng không cần phải phân biệt là nam hay nữ, đúng không?”
Tôi ngẩng lên nhìn anh, bắt gặp ánh mắt anh đang dừng lại trên tôi rất lâu, không chớp. Ánh mắt ấy dịu dàng hơn bất cứ câu trả lời nào tôi có thể nhận được.
Anh khẽ gật đầu, đôi môi cong lên một chút, như một nụ cười không thành tiếng.
“Ừ. Không cần phải phân biệt.”
Chúng tôi về đến nhà khi ánh chiều vừa tắt sau những mái ngói loang nắng. Tôi vừa mở cửa bước vào thì mùi thơm nhẹ nhàng của thức ăn đã lướt qua mũi, khiến bụng cồn cào sau một ngày mệt mỏi. Bàn ăn được dọn sẵn, gọn gàng đến mức tôi ngỡ như lạc vào một căn nhà mẫu.
“Anh nấu hết á?” – tôi ngạc nhiên.
Lương Tri không đáp, chỉ cười, tay bật chiếc máy phát nhạc đĩa nằm gọn trên chiếc kệ gỗ cũ kỹ. Âm thanh xào xạc vang lên, một bản hòa tấu dịu dàng như sóng biển vỗ về tâm hồn, hòa cùng tiếng đàn dương cầm và tiếng sóng gió xa xăm như gọi về một miền ký ức nào đó.
“Cái máy này… chắc là cũ lắm rồi nhỉ?” – tôi tò mò bước lại gần, ánh mắt dừng trên những vết xước mờ và lớp bụi mỏng còn sót lại.
“Ừ. Là của một người bạn cũ tặng. Nó vẫn hoạt động tốt, dù chẳng ai nghĩ thế.”
Ánh mắt anh lướt về phía cây guitar tựa vào góc tường, thùng đàn sẫm màu theo thời gian nhưng dây vẫn được lên kỹ càng.
“Anh biết chơi đàn không?”
Lương Tri nhún vai, ngồi xuống ghế, ra hiệu mời tôi vào bàn ăn:
“Cũng biết một chút. Nhưng để sau đi, giờ ăn tối trước đã.”
Chúng tôi dùng bữa cùng nhau. Không khí dịu nhẹ, chỉ có tiếng nhạc và tiếng muỗng chạm đĩa vang lên đều đặn. Tôi nhìn anh gắp thức ăn cho mình, chợt cảm thấy khoảng cách giữa hai người không còn xa lạ như thuở ban đầu. Dưới ánh đèn vàng ấm, giữa những món ăn đơn giản nhưng tròn vị, tôi bỗng thấy… hình như cuộc sống cũng có thể dịu dàng như vậy.
Một buổi tối bình yên. Và tôi bắt đầu mong chờ những buổi tối như thế này sẽ lặp lại, nhiều lần hơn. Nhưng có vẻ thời gian không còn nhiều nữa.
Tôi bật cửa phòng, ném balo xuống một góc rồi nhảy phóc lên giường như một thói quen lâu ngày chẳng sửa nổi. Nằm sấp xuống, cằm gác lên tay, mắt tôi dừng lại ở chiếc mô hình thuyền buồm đặt trong lọ thủy tinh, nằm lặng lẽ trên chiếc bàn cạnh cửa sổ.
Ánh đèn trong phòng hắt nhẹ lên thân thuyền bé nhỏ. Sóng biển thuở nào dường như đang nhấp nhô trong từng đường cong thuỷ tinh ấy. Tôi thầm nghĩ: Liệu mình có thể thực hiện ước mơ không? Có thể giúp những đứa trẻ ở quê không còn thất học? Có thể viết lại một tương lai khác cho những vùng đất nghèo?
Những câu hỏi lởn vởn như sóng vỗ vào thành thuyền. Tôi trở mình, gối tay sau đầu, nhìn lên trần nhà mà thấy lòng nặng trĩu.
Chán quá, tôi lồm cồm bò dậy, mở cửa bước xuống nhà, định tìm gì đó uống cho đỡ nhạt miệng.
Khi đi ngang qua hành lang, ánh sáng mờ từ khe cửa phòng tắm lọt ra khiến tôi khựng lại. Không hiểu vì sao tôi dừng chân. Tôi lén nhìn qua khe cửa khép hờ… và rồi tim tôi đập mạnh như trống làng.
Lương Tri đang lau mái tóc ướt, từng giọt nước còn đọng lại nơi bờ vai rắn chắc. Từng đường nét trên cơ thể anh sắc như tạc tượng, làn da rám nắng khỏe mạnh, mái tóc bết nhẹ che một phần trán, ánh đèn vàng nhạt phủ lên người anh khiến cảnh tượng ấy vừa quyến rũ, vừa... quá sức chịu đựng với một đứa sinh viên như tôi.
Tôi chết trân vài giây rồi như bừng tỉnh, mặt đỏ bừng, quay lưng lại, tay che mặt chạy thẳng lên phòng như thể bị bắt quả tang.
Đóng cửa phòng lại, tôi úp mặt vào gối rên lên khe khẽ:
Chết mất thôi… anh ta đẹp như vậy… ai mà lấy được anh ấy chắc sướng cả đời…
Tôi lăn qua lăn lại trên giường, tim vẫn còn chưa chịu yên. Không hiểu vì sao, nhưng hình ảnh đó cứ quanh quẩn mãi trong đầu tôi. Có lẽ, trái tim tôi đang bắt đầu rung động rồi…
Sáng hôm sau, tôi thức dậy sớm hơn mọi ngày. Cảm giác vẫn còn dư âm từ tối qua khiến tim tôi như đập lạc nhịp. Nhớ lại khoảnh khắc "bất cẩn" ấy, mặt tôi lại nóng ran. Tỉnh táo lên, Hứa Kỳ Anh! — tôi tự mắng mình khi nhìn vào gương.
Tôi rón rén bước xuống nhà, mong rằng có thể lẻn ra ngoài mà không chạm mặt anh ta. Nhưng đời đâu dễ vậy...
Vừa đặt chân xuống bậc thang cuối cùng, giọng trầm quen thuộc vang lên sau lưng:
— "Chào buổi sáng, cậu ngủ có ngon không?"
Tôi giật mình quay phắt lại. Lương Tri đang đứng trong bếp, tay cầm chiếc ly, tóc đã khô, mặc một chiếc áo sơ mi trắng đơn giản mà vẫn toát lên dáng vẻ điềm đạm, tinh tế.
— "À… ừm… cũng được ạ." — Tôi lắp bắp, mắt đảo vòng quanh tránh nhìn vào mặt anh.
Anh nghiêng đầu, bước tới gần, nụ cười nửa miệng quen thuộc ấy lại hiện lên:
— "Sao hôm nay mặt em đỏ vậy? Sốt à?"
— "Đâu… đâu có!" — Tôi lùi lại, suýt nữa vấp vào chiếc ghế phía sau.
Trời ơi, cứu tôi với!
Lương Tri cười nhẹ, đặt ly sữa lên bàn:
— "Ừm, chắc là tại ngủ mơ thấy gì đỏ mặt cũng nên…" — Anh vừa nói vừa nhướng mày nhìn tôi, ánh mắt đầy ẩn ý khiến tôi chỉ muốn độn thổ.
Tôi giả vờ ho lấy lệ, cúi gằm mặt xuống:
— "Thôi… em ra ngoài một chút… cho tỉnh ngủ!"
— "Đi đâu cũng được, nhớ cầm theo ly sữa này. Uống vào cho đỡ ngượng!" — Anh nói với theo, không giấu được vẻ thích thú.
Tôi chộp lấy ly sữa và chạy biến ra sân sau, để lại tiếng cười khẽ của anh vang vọng trong căn nhà yên bình ấy.
Sau khi trốn ra sân sau ngồi một lúc, tôi mới dám trở vào nhà. Lương Tri đã chuẩn bị xong bữa sáng từ khi nào, mùi trứng ốp la thơm phức cùng bánh mì nướng giòn tan khiến cái bụng tôi réo lên từng hồi.
— “Vào ăn đi. Hôm nay tôi không có kế hoạch gì, nếu em rảnh thì lát nữa đi siêu thị với tôi nhé?” — Anh vừa nói vừa đẩy đĩa trứng về phía tôi.
— “À… dạ được. Em cũng định đi mua ít đồ dùng học tập.” — Tôi đáp, cố không nhìn quá lâu vào khuôn mặt vẫn còn vương ánh nắng sớm của anh.
Ăn xong, trong lúc tôi đang rửa bát, Lương Tri lên phòng. Tôi dọn dẹp xong thì tò mò đi quanh nhà một chút, dừng lại trước căn phòng nhỏ cuối hành lang tầng trệt. Cánh cửa khép hờ. Tôi chần chừ một chút rồi gõ nhẹ.
Không thấy ai trả lời, tôi đẩy cửa bước vào.
Một căn phòng nhỏ, yên tĩnh. Ánh sáng lọt qua lớp rèm mỏng chiếu xuống chiếc bàn làm việc ngăn nắp, trên tường là một khung tranh lớn, vẽ cảnh biển bao la với một con thuyền nhỏ đang giữa cơn bão. Bên dưới khung tranh là giá sách, bên trên có một cuốn album cũ đã ngả màu thời gian.
Tôi không định tò mò, nhưng lại bất giác cầm lấy.
Những tấm ảnh đen trắng đầu tiên là hình một cậu bé gầy gò đang cười toe trong vòng tay của một người phụ nữ tóc bạc—ánh mắt hiền từ đến nao lòng.
Tôi khựng lại.
Giống… giống bà của mình thật. Nhưng chắc không phải đâu.
Lúc đó, giọng nói trầm khẽ vang lên sau lưng:
— “Đó là bà tôi. Bà nuôi tôi từ nhỏ.”
Tôi giật mình quay lại. Lương Tri đứng dựa vào khung cửa, nụ cười không rõ buồn hay ấm.
— “Anh… em xin lỗi, em không có ý…” — Tôi lúng túng đặt cuốn album xuống.
Anh bước vào, ánh mắt vẫn dõi theo khung tranh trên tường:
— “Phòng này tôi giữ lại từ rất lâu, là góc nhỏ riêng. Lâu rồi không có ai bước vào…”
Tôi cúi đầu, thấy hơi tội lỗi. Nhưng rồi anh nhẹ giọng tiếp:
— “Không sao đâu. Có khi em vào đây… cũng là cái duyên.”
Tôi cười nhẹ, đứng lặng một lúc trước bức tranh biển. Bỗng cảm thấy như mình đang dần được kéo vào một thế giới khác—nơi có những ký ức đẹp và cũng có những vết thương chưa lành.
Lương Tri quay sang tôi, khẽ nói:
— “Đi thôi, siêu thị chờ chúng ta đấy.”
Tôi khẽ gật đầu. Cánh cửa khép lại phía sau, mà trái tim tôi thì vẫn rộng mở trước những điều dịu dàng vừa chạm đến.
Tôi vừa bước ra khỏi căn phòng thì khựng lại. Có gì đó lạ lắm.
Dưới chân tôi, một góc ảnh nhỏ thò ra khỏi khe sàn gỗ. Tôi cúi xuống nhặt lên. Là một tấm ảnh cũ, đã mờ, viền ảnh bị mòn nhẹ theo thời gian. Có vẻ lúc nãy trong lúc mở cuốn album, tôi vô tình làm rơi mà không hay.
Tôi nhìn kỹ hơn.
Một người phụ nữ trẻ đang cười tươi, tay bế một đứa trẻ chỉ chừng hai, ba tuổi. Đứa trẻ ấy… là Lương Tri? Mái tóc rối, đôi mắt sáng ngời nhưng ngơ ngác—gương mặt non nớt ấy chắc chắn là anh.
Nhưng người phụ nữ…
Tay trái bế anh ấy, tay phải cầm một con cá hồi còn tươi rói, má lúm đồng tiền hiện rõ khi cười, mái tóc dài được cột hờ ra sau…
Là… mẹ anh ta sao?
Tôi ngơ ngẩn, lòng dâng lên một cảm giác kỳ lạ. Chưa từng, chưa một lần nào, tôi nghe Lương Tri nhắc đến mẹ. Tất cả những gì tôi biết chỉ là bà của anh, là ngôi làng nơi anh lớn lên, là lời hứa trở thành hải quân…
Tôi lặng lẽ cất tấm ảnh vào ngăn sổ tay rồi đi nhanh về phòng. Đóng cửa lại, tôi ngồi xuống giường, mắt nhìn đăm đăm ra con thuyền trong chai thủy tinh. Nhưng lần này tâm trí tôi không còn trôi theo hình ảnh cánh buồm căng gió nữa.
Tôi nhìn tấm ảnh một lần nữa. Dù mờ, nhưng nụ cười người phụ nữ ấy… thật ấm áp.
Tại sao anh ấy lại giấu? Có phải đã có một biến cố gì đó trong quá khứ khiến anh không thể nhắc đến bà ấy? Hay… bà ấy không còn?
Tôi siết nhẹ ảnh trong tay. Trái tim bỗng dưng thấy nặng nề.
Lương Tri, anh mang trong lòng bao nhiêu chuyện chưa kể vậy? Và liệu... một người như em, có thể nào bước vào thế giới ấy không?
Cuối tuần đến, trời trở gió nhẹ, se lạnh. Lương Tri sửa soạn từ sáng sớm, chiếc vali nhỏ xếp gọn vài bộ đồ và quyển album ảnh cũ kỹ, anh cũng không quên mang theo cây đàn guitar cùng mô hình thuyền trong lọ thủy tinh — những kỷ vật như gắn liền với tâm hồn anh.
Trước khi rời đi, anh dặn dò Kỳ Anh:
— Mấy hôm tới anh về quê một chuyến. Em nhớ ăn uống đầy đủ, đừng bỏ bữa. Nhớ chưa?
Kỳ Anh mím môi, gật đầu:
— Vâng, anh yên tâm. Nhớ... giữ ấm và về sớm nhé.
Họ đứng cạnh nhau dưới mái hiên, nắng nhẹ nghiêng đổ lên bậc thềm. Lương Tri đưa tay xoa đầu Kỳ Anh, ánh mắt dịu dàng hơn cả làn gió xuân.
— Anh đi nhanh thôi mà. Nhớ anh thì pha socola uống nhé.
Chiếc tàu lăn bánh rời ga, mang theo Lương Tri về phương Nam — về một nơi có mùi mặn của biển, nơi anh từng gọi là quê hương.
Anh không biết, ở một nơi khác cũng thuộc về miền biển đó, có một cậu trai tên là Kỳ Anh đang lặng lẽ nhìn theo qua màn hình điện thoại. Cậu đứng lặng trong căn nhà thiếu đi âm thanh đàn guitar, thiếu cả tiếng gõ muỗng lách cách trong bếp và thiếu luôn ánh nhìn ấm áp mỗi buổi chiều tan học.
Nhưng rồi như có điều thôi thúc, Kỳ Anh bắt đầu để ý kỹ hơn... Tại sao chiếc guitar anh hay dùng đã biến mất? Quyển album ảnh trên giá sách cũng không còn. Và... cả mô hình thuyền buồm trong chai thủy tinh — vật cậu vẫn ngắm mỗi tối trước khi ngủ — cũng không còn nằm yên ngoài cửa sổ.
Có điều gì đó thôi thúc Kỳ Anh phải tìm hiểu, phải xâu chuỗi lại tất cả những điều nhỏ nhặt ấy.
Cậu bắt đầu lật lại từng trang ký ức.
Là ánh mắt trầm buồn khi nói về biển. Là nụ cười gượng gạo khi nhắc đến quê hương. Là cách anh né tránh mỗi lần nhắc đến gia đình mình.
— Lương Tri, rốt cuộc anh là ai? — Kỳ Anh thầm nghĩ.
Và như định mệnh đã sắp đặt, Kỳ Anh quyết định bắt đầu hành trình tìm kiếm mảnh quá khứ mà Lương Tri cố chôn giấu.Tiếng rì rầm đều đặn của bánh tàu nghiến trên đường ray như ru lòng người vào những khoảng lặng xa xăm. Lương Tri ngồi tựa đầu vào cửa kính, ánh mắt anh không hướng ra ngoài, mà dừng lại trên quyển album ảnh cũ kỹ đã bạc màu theo năm tháng.
Ngón tay anh khẽ lật từng trang, như thể sợ làm gãy những ký ức mong manh đã bị gió biển vùi lấp. Một tấm ảnh rơi nhẹ ra ngoài, anh cúi xuống nhặt, bất ngờ nhận ra một chiếc lá phong đỏ khô kẹp trong một trang giấy trắng.
Anh khựng lại.
Lá phong ấy… đã khô giòn theo năm tháng, nhưng màu đỏ vẫn còn vương một chút rực rỡ của mùa thu năm nào. Dưới chiếc lá là một bức ảnh: gia đình anh — cha, mẹ và anh lúc còn nhỏ — cùng ngồi bên bờ biển, đằng sau là con thuyền đánh cá lấm lem nhưng ấm áp tình thân.
Anh siết chặt album vào lòng.
Lần trở về này, không chỉ là công việc.
Đó là lời hứa với chính mình. Lời hứa năm xưa khi còn nằm trên giường bệnh, sống sót sau cơn bão nhờ một phép màu.
Anh muốn tìm lại xác con thuyền năm ấy — nơi cha anh đã vĩnh viễn ra đi. Anh muốn biết mẹ mình đã đi đâu, sống hay mất, hay bị cuốn vào bóng tối của biển sâu? Có phải… cơn bão ấy không chỉ nhấn chìm con thuyền, mà còn xóa sạch một phần linh hồn của anh?
Lần này anh về, còn mang theo một nhiệm vụ: thực hiện dự án phát triển đất đai, quy hoạch lại toàn bộ làng chài ven biển — quê hương anh, nơi từng nghèo đói, lam lũ nhưng đầy nghĩa tình. Tập đoàn Hoa Thị mà anh đang làm việc đã ký kết triển khai dự án đô thị hóa khu vực duyên hải Hạ Ôn Lương.
Anh không về một mình. Cùng anh là những đồng nghiệp, kỹ sư, nhà đầu tư, và cả các chuyên gia điều tra biển và khảo cổ học — để khai quật, khảo sát lại vùng biển từng ghi nhận thảm kịch năm xưa.
Trái tim anh lặng sóng, nhưng bên trong là từng đợt sóng ngầm cuộn trào.
Anh không biết rằng, chỉ cách nơi mình đến một ngọn đồi cát và con suối nhỏ… là ngôi nhà tuổi thơ của Kỳ Anh.
Và có lẽ… định mệnh đang bắt đầu dệt nên sợi dây vô hình giữa hai con người mang cùng một nỗi đau từ biển cả.
Tàu rít lên một tiếng dài rồi dừng hẳn ở ga cuối. Ánh nắng trưa trải nhẹ xuống sân ga như tấm lụa mỏng, vàng hanh và bình yên. Lương Tri bước xuống, kéo vali lăn qua những viên đá sỏi cũ kỹ, lòng anh chộn rộn lạ thường. Thay vì về thẳng Hạ Ôn Lương, anh và mấy đồng nghiệp tranh thủ ghé vào một con hẻm nhỏ tìm gì đó lót dạ.
Con hẻm ấy hẹp, rêu bám xanh trên tường gạch. Ẩn sâu bên trong là một quán mì mộc mạc, chỉ vài cái bàn gỗ cũ kỹ, ánh đèn vàng lờ mờ và làn khói mì nghi ngút bay lên từ bếp nhỏ sau quầy.
Chị chủ quán là một người phụ nữ khoảng ngoài bốn mươi, mái tóc buộc gọn sau gáy, khuôn mặt hiền hòa điểm vài nếp nhăn sớm vì sương gió. Bên cạnh là cô con gái nhỏ, tầm bảy tám tuổi, đang lúi húi xếp đũa lên bàn.
Lương Tri ngồi xuống, ánh mắt anh bất giác dừng lại ở nụ cười của người phụ nữ ấy.
Hiền như mẹ.
Ấm như nhà.
Tim anh chùng xuống.
Không biết vì hương vị bát mì, hay vì ánh mắt quá giống mẹ mình, mà khi chị đặt tô mì trước mặt anh, tim anh bỗng thắt lại. Một mùi hương thân thuộc, dịu dàng và rất đỗi quê hương khiến đôi mắt anh cay nhòe.
Anh cúi đầu cảm ơn, cố lấy lại bình tĩnh.
Khi nhóm anh ăn xong chuẩn bị rời đi, người phụ nữ bước ra cửa tiễn, chậm rãi hỏi:
— Mấy đứa đi công tác à?
— Dạ, tụi cháu xuống vùng biển Hạ Ôn Lương.
— À, quê cá, quê sóng... Cô chúc tụi cháu gặp nhiều may mắn.
Nụ cười của chị rạng rỡ, nhưng trong đôi mắt lại ánh lên một tia xao xuyến mà anh không thể gọi tên.
Lương Tri cúi đầu chào, rồi dợm bước lên xe.
Nhưng trước khi đi, anh quay lại.
Anh ngước nhìn góc quán nhỏ: chiếc bàn kê sát cửa sổ, nơi có tán phong đỏ rực buông xuống như khung tranh. Khói bếp nhè nhẹ quấn lên trời, ánh chiều rọi qua làm mọi thứ nhòe nhoẹt mà đẹp đến nao lòng.
Anh tự nhủ phải ghi nhớ nơi này.
Một góc quán.
Một người phụ nữ.
Một mùi hương.
Một mảnh kí ức rất giống với điều gì đó đã từng yêu thương.
Anh lại bước đi. Xe chuyển bánh.
Mọi thứ phía sau dần lùi lại.
Anh không biết, có lẽ số phận đang âm thầm dệt tiếp câu chuyện cũ...
...nơi góc quán bình yên ấy.
Cô chủ quán bước chầm chậm lên con dốc sau con hẻm nhỏ, nơi mà hàng chục năm qua cô vẫn gọi là “lưng trời” – một góc đồi cao sát vách núi, nhìn xuống là cả vùng biển mênh mông trải dài bất tận. Nơi đây, mỗi buổi chiều gió thổi, cô thường đứng lặng lẽ, như đang trò chuyện với biển cả, hay với ai đó đã xa rời cuộc đời cô từ lâu lắm rồi.
Gió biển hôm nay lạ lắm. Nó thổi ào qua mái tóc cô, mang theo hơi muối mằn mặn và chút nồng nàn của ký ức. Sóng dưới kia vẫn dội vào bờ như mọi ngày, hải âu sải cánh lượn lờ qua trời, vẽ nên những vòng bay trìu mến và tự do. Cô ngước nhìn lên, rồi lại nhìn xuống lòng bàn tay mình, ngón tay từng lần chạm vào khuôn mặt đứa con nhỏ năm nào—giờ đây chắc hẳn đã cao lớn lắm rồi.
Cô thì thầm, giọng như gió thoảng:
— Có vẻ... đã trưởng thành rồi...
Một giọt nước mắt lặng lẽ lăn xuống má. Không rõ vì nỗi nhớ, vì hi vọng, hay vì điều gì đó mơ hồ hơn thế. Chỉ biết trong khoảnh khắc ấy, cô cảm thấy gần như chắc chắn: người thanh niên ấy… có thể… là đứa trẻ năm xưa cô đã từng bồng bế qua bao ngày giông gió.
Nhưng gió chẳng trả lời.
Chỉ cuốn giọt lệ của cô ra biển khơi, để lại sau lưng một tiếng nấc không lời.
Gió chiều nghiêng nhẹ, mang theo hương muối biển thấm đẫm vào từng kẽ tóc, từng nếp áo của Lương Tri. Khi bước chân đầu tiên chạm xuống mảnh đất quê hương, một thứ cảm xúc cũ kỹ, xưa cũ đến nao lòng bỗng ào tới. Bao năm rồi, anh mới được đặt chân trở lại nơi từng là ký ức, là giấc mơ dang dở và cũng là khởi điểm của những mất mát chẳng thể gọi tên.
Trời đã sụp tối. Những ánh đèn dầu lập lòe sau các tán dừa thấp thoáng bên đường. Anh không đi thẳng về ven biển phía Nam—nơi bà vẫn sống, vẫn đợi, vẫn mong—mà lặng lẽ cùng đồng nghiệp tìm một góc trọ nhỏ gần ngã ba làng để nghỉ lại.
Quán trọ cũ kỹ nhưng sạch sẽ. Tường quét vôi vàng đã bong tróc, mái lợp tôn lạo xạo khi gió lùa, mùi gỗ mục và mùi biển xen lẫn trong không khí, khiến Lương Tri vừa thấy thân quen, vừa se sắt trong lòng.
Anh nhìn đồng hồ. Gần bảy giờ tối.
“Chắc giờ này bà vẫn đang ngồi trước hiên nhà, vừa đan len vừa ngóng ra biển.”
Ý nghĩ ấy thoáng qua khiến lòng anh dịu lại, ấm lên.
Anh muốn tạo một điều bất ngờ cho bà. Không báo trước, không gọi điện, chỉ lặng lẽ trở về như một cơn gió mùa trở lại. Như những ngày bé con, anh thường chạy ùa vào lòng bà, hét lên:
— Bà ơi, con về rồi!
Đêm ấy, anh ngồi trước cửa trọ, nhìn ra bầu trời đêm vằng vặc sao, thi thoảng hương gió biển lại ùa vào như lời ru của ký ức. Anh lặng thinh, tay lần giở quyển album mang theo, chạm nhẹ lên những tấm ảnh xưa cũ. Mỗi hình ảnh như một nhát khắc vào trái tim, gợi về những năm tháng anh từng đánh mất.
Ngày mai thôi, anh sẽ đi tìm lại tất cả—bà, con thuyền chìm năm ấy, và cả những điều còn vương vất trong trái tim anh.
Sáng sớm hôm sau, trời còn mờ sương. Tiếng gà gáy vọng lại từ xa như đánh thức cả ngôi làng ven biển đang nằm yên trong giấc ngủ. Lương Tri đã dậy từ lúc trời còn lờ mờ ánh sáng, mái tóc anh hơi rối, ánh mắt mang theo nét ngái ngủ pha lẫn háo hức. Anh mặc chiếc áo sơ mi vải thô nhạt màu, khoác thêm chiếc áo gió bạc màu năm nào, rồi rời quán trọ, lặng lẽ đi bộ trên con đường đất dẫn xuống phía biển.
Con đường ấy ngày xưa anh từng chạy lon ton theo sau bà, chân đầy cát, tay cầm một quả dừa xiêm được bà tỉ mẩn bổ cho. Giờ đây, từng viên sỏi, từng dấu chân nhỏ nơi đó dường như vẫn còn in bóng hai bà cháu của bao năm về trước.
Gió biển buổi sớm mang theo vị mằn mặn thấm vào từng hơi thở. Hàng phi lao vẫn đứng yên lặng, rì rào như thì thầm câu hát cũ. Ngôi nhà mái ngói thấp thoáng sau rặng dừa—ngôi nhà của bà—vẫn vậy, không có gì thay đổi.
Lương Tri dừng lại trước cổng. Cánh cổng gỗ xưa giờ đã phai màu, có vài chỗ mục nát vì mưa nắng. Anh khẽ đẩy cửa, bước vào trong sân.
Bà đang ngồi trên ghế tre trước hiên, mái tóc bạc phơ búi gọn sau gáy, đôi tay gầy guộc vẫn thoăn thoắt đan len. Bà không ngẩng đầu lên, chỉ nói vu vơ:
— Sáng nào cũng có gió biển… chẳng biết bao giờ thằng nhỏ đó mới về…
Lương Tri nghẹn ngào. Giọng bà vẫn như thế, ấm và nhẹ như hơi gió. Anh tiến đến gần, quỳ xuống trước mặt bà, giọng run run:
— Bà… con về rồi đây.
Đôi tay già khựng lại, cuộn len rơi xuống đất. Bà ngẩng lên, đôi mắt già nua mở to nhìn anh, tưởng chừng như không tin vào mắt mình.
— Tri… là con thật sao? Trời ơi, thằng Tri của bà… về rồi… con về rồi…
Bà khóc. Nước mắt già rơi xuống khuôn mặt đã đầy nếp nhăn, lăn xuống đôi gò má gầy guộc. Bà ôm anh, run rẩy như ôm lấy tất cả những năm tháng xa cách, những mong ngóng v0à khắc khoải không lời.
Không khí lúc ấy, chỉ có tiếng sóng rì rào ngoài xa, và tiếng lòng vỡ òa trong một vòng tay ôm của tình thân chẳng bao giờ phai nhạt.
Bà đưa Lương Tri vào nhà, nơi mọi thứ vẫn được gìn giữ cẩn thận như thể thời gian chưa từng trôi đi. Những khung ảnh cũ phủ lớp bụi mỏng treo trên tường, chiếc tủ gỗ sậm màu với ngăn kéo hơi kẹt vẫn nằm im ở góc nhà, và trên bàn thờ tổ tiên, chiếc khăn đỏ vẫn phủ lên khung ảnh cha anh—người đã không thể trở về sau cơn bão năm đó.
Bữa sáng được bà chuẩn bị đơn giản: cá nướng, ít cơm nguội, và chén nước mắm gừng. Họ vừa ăn, vừa trò chuyện. Bà kể về những ngày gió lớn thổi vỡ cả mái nhà, rồi những vụ mùa trúng cá khiến cả làng hân hoan. Lương Tri lặng yên nghe, tay lần nhẹ lên tấm ảnh cha mình trên bàn, lòng trĩu nặng.
— Bà, con sẽ ở lại đây một thời gian. Lần này con không chỉ về thăm bà, mà còn có việc muốn làm… — Lương Tri nói nhỏ, mắt nhìn ra ngoài sân đầy nắng.
Bà không hỏi thêm. Bà chỉ gật đầu, giọng khẽ như gió:
— Ừ, con làm gì cũng được… miễn là con không quên mình từ đâu mà lớn lên…
Lương Tri đứng dậy, nhìn ra biển. Ngoài kia, sóng vẫn vỗ bờ từng đợt, từng đợt đều đặn như nhịp tim của chính anh. Lần này trở về, anh không chỉ tìm lại gốc rễ, mà còn muốn xây dựng lại vùng đất này. Một phần vì ước nguyện tuổi thơ, một phần… vì cả những người anh thương.
Cùng lúc ấy, ở thành phố, Kỳ Anh lục lọi căn nhà một lần nữa. Căn phòng vắng tiếng Lương Tri như thiếu đi nhịp thở. Cậu mở laptop, tìm kiếm những manh mối đầu tiên về vùng biển phía Nam—về Ôn Lương, về những tai nạn tàu thuyền năm xưa, về các dự án tái thiết ven biển gần đây.
Trong lòng cậu trào lên một thứ cảm xúc vừa tò mò, vừa lo lắng… Cây đàn guitar biến mất, mô hình con thuyền cũng không còn, và tấm ảnh người phụ nữ bế đứa trẻ bên con cá hồi vẫn nằm trong ngăn kéo bàn học của cậu—cất kỹ, chưa một lần mang ra hỏi thẳng.
"Anh là ai trong những câu chuyện còn thiếu khúc này vậy, Lương Tri?" — Kỳ Anh nghĩ thầm, tay chạm nhẹ vào mép ảnh, đôi mắt nhìn ra cửa sổ... hướng về phía biển, nơi ánh hoàng hôn đang dần nhuộm đỏ chân trời. ngồi bên hiên nhà, ánh nắng chiều rọi nghiêng trên mái tóc anh. Trên tay là bản vẽ sơ bộ khu vực ven biển Ôn Lương, những nét vạch quy hoạch hiện đại chạy cắt ngang ruộng muối, chạm sát những dãy nhà gỗ đã bạc màu thời gian. Anh nhìn bản đồ, nhưng tâm trí lại lạc đi nơi khác — nơi những con thuyền nan đung đưa bên bến cũ, nơi tiếng cười của dân làng vang vọng trong ký ức tuổi thơ.
Bà đặt tách trà nóng xuống trước mặt anh. Mùi lá dứa nhẹ lan trong không khí. Một khoảng lặng.
— Tri à, lần này con về... là để thay đổi cả vùng này sao?
Lương Tri ngước mắt, khẽ gật đầu.
— Con có một dự án muốn triển khai… nhưng vẫn đang trong giai đoạn khảo sát. Cần thời gian để tính toán thêm.
Bà nhìn thẳng vào anh, ánh mắt không giận dữ, chỉ buồn sâu thẳm.
— Quê mình ấy mà… có thể nghèo, nhưng nó là chốn để người ta trở về. Bao nhiêu đời, cha con, ông bà đều sống nhờ biển, nhờ đất này. Nếu con làm gì khiến người dân mất nghề, mất nhà… con có sống an lòng không?
Lương Tri không trả lời. Anh im lặng thật lâu. Trong lòng anh trỗi dậy một điều gì đó rất cũ — ký ức về lần đầu đi câu cá cùng cha, về bát cơm chan nước mắm bà rưới cho sau chuyến biển đầu tiên. Anh hiểu lời bà không chỉ là cảm xúc, mà là lời nhắn gửi của cả một thế hệ đã gắn bó máu thịt với mảnh đất này.
— Bà... con chưa có kế hoạch cụ thể nào đâu. Con chỉ... đang tìm một hướng đi dung hòa thôi. Không phá bỏ, chỉ là muốn nơi này được sống tốt hơn…
— Không phải cứ bê tông hóa, dựng nhà cao tầng mới là tốt hơn. Người quê mình cần cá, cần ruộng, cần biển. Họ cần công việc, chứ không phải những mảnh đất để ngắm rồi bị xua đuổi — bà nói, chậm rãi nhưng kiên định.
Lương Tri gập bản vẽ lại, không một tiếng động. Anh ngẩng đầu, mắt nhìn thẳng ra biển. Sóng vẫn xô bờ, như chưa từng đổi thay.
— Con hiểu rồi, bà.
Anh biết, hành trình lần này không chỉ là để xây dựng một dự án, mà là để học lại cách lắng nghe — nghe tiếng lòng của quê hương, của những người đã sống cả đời với muối và gió.
Bạn có muốn để Lương Tri tìm được một giải pháp nào đó có thể hòa giải giữa phát triển và bảo tồn không? Hay để anh lưỡng lự thêm một thời gian, đồng thời đối diện thêm nhiều ký ức từ quá khứ?
Dưới ánh đèn vàng của phòng họp tạm dựng bên ven biển, bốn con người ngồi vây quanh một chiếc bàn gỗ cũ, xếp chồng lên nhau là những bản thiết kế, sơ đồ đất, và hàng trang tài liệu nghiên cứu. Bên ngoài, sóng biển vẫn vỗ nhè nhẹ, đối lập hoàn toàn với không khí căng thẳng trong căn phòng.
Lương Tri nhìn bản thảo mới nhất: một mô hình chuyển đổi vùng đất ven biển thành khu kết hợp trồng lúa nước mặn, khai thác muối và phát triển du lịch sinh thái nhẹ nhàng. Ý tưởng này là kết quả từ những ngày lắng nghe người dân, những đêm thăm cánh đồng muối, những bữa cơm cùng bà anh.
Nhưng không phải ai cũng đồng tình.
Anh Minh — đồng nghiệp nam khoảng 50 tuổi, chuyên về đất đai, bất động sản — gõ ngón tay lên mặt bàn, giọng cứng rắn:
— Tôi hiểu ý cậu, nhưng vùng này có giá trị bất động sản tiềm năng rất cao. Nếu chỉ dùng cho trồng lúa và làm muối, thì chẳng ai đầu tư cả. Phải tận dụng quỹ đất để làm các khu dịch vụ hoặc ít nhất là khu nghỉ dưỡng ven biển.
Hà Vy — nữ đồng nghiệp trẻ, chuyên về thiết kế và chính sách đầu tư — phản đối nhẹ nhàng:
— Nhưng nếu làm khu nghỉ dưỡng, phải di dời dân cư. Chưa kể hệ sinh thái vùng biển này rất mong manh, chuyển đổi đột ngột sẽ phá hủy toàn bộ cấu trúc địa phương. Mô hình của anh Tri có tính bền vững và dễ được chính quyền phê duyệt hơn.
Khánh — chuyên gia kiến trúc và mô hình kinh tế, trầm ngâm:
— Tôi thấy cả hai bên đều có lý. Vấn đề là làm sao để lồng ghép được cả yếu tố kinh tế lẫn văn hóa truyền thống. Tri, cậu có nghĩ đến việc kết hợp mô hình sản xuất với du lịch trải nghiệm không? Làm một khu mô phỏng đời sống làng chài xưa, vừa tạo việc làm cho dân, vừa thu hút khách.
Lương Tri im lặng, tay cầm ly trà nguội lạnh. Ánh mắt anh không rời khỏi bản đồ mô hình. Trong đầu anh là gương mặt bà, là lời nói của người phụ nữ trong quán mì ven hẻm, là cả nụ cười ngây thơ của Kỳ Anh khi cậu nhìn con thuyền trong chai thuỷ tinh.
— Tôi muốn giữ lại những gì vốn thuộc về nơi này — anh nói, giọng trầm, rõ từng chữ. — Nếu chúng ta có thể tạo ra một hệ sinh thái sống dựa trên muối, lúa mặn và du lịch trải nghiệm, thì người dân không phải rời quê, mà còn có cơ hội phát triển.
Một khoảng lặng kéo dài. Bên ngoài, gió biển ào vào khe cửa sổ hé mở, cuốn theo mùi muối và hương cỏ đêm.
— Nhưng như vậy, sẽ tốn thời gian hơn, có thể không có lợi nhuận ngay — Anh Minh nhấn mạnh.
— Đúng. Nhưng nếu chỉ nhìn vào lợi nhuận trước mắt mà phá bỏ ký ức, thì còn gì là quê hương? — Lương Tri đáp, ánh mắt kiên định.
Buổi tranh luận kéo dài đến tận khuya. Bản thảo bị vẽ rồi xóa, cãi rồi lại bàn, các kịch bản được đưa ra, phân tích rồi loại bỏ. Cả nhóm đều mệt mỏi nhưng không ai rời đi. Họ biết, đây không chỉ là một dự án — mà là tương lai của một vùng đất, và của chính Lương Tri.
**
Đêm xuống, trời Hạ Ôn Lương không còn oi ả như ban ngày. Lương Tri bước chân trần trên cát, nơi bờ biển phía tây mênh mông trải dài trước mắt. Gió biển thổi dịu dàng, lùa qua mái tóc, mang theo vị mặn của nước và hương nồng ngai ngái của rong rêu. Tiếng sóng dập dềnh, từng đợt vỗ bờ như lời thì thầm của biển cả nói cùng anh.
Cát mịn luồn qua kẽ ngón chân, Lương Tri cúi người nhặt một vỏ sò trắng, lặng nhìn sóng tràn lên xóa đi dấu chân phía sau. Mọi căng thẳng từ cuộc họp tối qua, những tranh luận bất tận, những mâu thuẫn giữa lý trí và cảm xúc, giữa ký ức và hiện tại... dường như tan vào làn gió biển mặn mòi.
Ánh trăng soi sáng cả vùng trời, và giữa khung cảnh yên bình ấy, một ý nghĩ bỗng lóe lên trong đầu anh.
Anh chậm rãi bước lên tảng đá cao ven bờ, từ đây có thể nhìn rõ địa hình quanh vùng. Biển nơi đây hình chữ U, ba mặt giáp nước, như vòng tay ôm lấy phần đất liền. Anh rút điện thoại, bật bản đồ vệ tinh đã lưu trong máy.
Phía Đông — vùng biển nông, có thể thấy rõ các dãy ghe nhỏ neo đậu gần bờ. Đây vốn là nơi ngư dân đánh bắt gần bờ, tiềm năng lớn trong việc bảo tồn nghề truyền thống.
Phía Nam — là khu dân cư và trường học, nơi bà anh và những người thân yêu sinh sống. Không thể thay đổi nơi này, càng không thể để phát triển bừa bãi làm xáo trộn đời sống người dân.
Và phía Tây... đôi mắt anh ánh lên niềm hi vọng. Khu vực này nước sâu, lòng biển rộng, không có nhiều đá ngầm. Đây, chính là nơi phù hợp nhất để phát triển một cảng biển hiện đại. Không phải là khu du lịch xa hoa, không phải khu dân cư cao cấp, mà là một cảng thương mại mở ra cơ hội giao thương, việc làm, mang lại thu nhập ổn định, và vẫn giữ gìn được hồn cốt của làng chài.
Ý tưởng này không cần san lấp toàn bộ, chỉ cần quy hoạch hợp lý: cảng biển nằm ở Tây, giao thông nối liền Nam, phía Đông tiếp tục bảo tồn nghề cá và xây dựng trung tâm bảo tồn biển.
Sáng hôm sau, Lương Tri về nhà, gõ cửa căn phòng nhỏ của bà. Bà đang phơi cá khô, vừa thấy anh đã mỉm cười:
— Đêm qua con lại trằn trọc hả?
Anh ngồi xuống bên bà, kể lại toàn bộ suy nghĩ vừa nảy ra trong đêm. Bà yên lặng nghe, đôi mắt nheo lại vì nắng hay vì xúc động, anh cũng không rõ.
Cuối cùng, bà đặt tay lên vai anh, siết nhẹ:
— Con à... nếu con làm được như lời con nói, thì không chỉ quê mình sống lại... mà ký ức của cha con, của mẹ con... cũng được giữ trọn trong từng nhịp sống nơi đây. Bà tin con.
Lương Tri gật đầu. Anh biết, giờ đây mình đã có hướng đi. Một hướng đi không chỉ nối liền quá khứ và hiện tại, mà còn dẫn về tương lai cho cả một vùng đất.
**
Giữa không gian tĩnh lặng của phòng họp nhỏ ven biển, ánh sáng hắt qua cửa kính mờ nhuộm vàng lên bản đồ dự án vừa được Lương Tri trải ra giữa bàn. Ba người đồng nghiệp của anh chăm chú nhìn vào bản thiết kế mới — cảng biển phía Tây, giữ nguyên nền nghề truyền thống ở Đông và phát triển khu dân sinh bền vững tại Nam.
— Tôi không nghĩ là sẽ khả thi... nhưng nhìn vào địa hình và lợi thế giao thương thì đây là một ý tưởng táo bạo và có cơ sở. — người đồng nghiệp lớn tuổi gật đầu trầm ngâm.
— Nếu thế, em sẽ thiết kế lại bảng quy hoạch. Phần khu cảng có thể tách làm hai giai đoạn, và vẫn giữ được vùng đệm sinh thái giữa các khu vực. — cô gái trẻ hào hứng lật từng trang giấy phác thảo.
— Chúng ta cần khảo sát đáy biển và địa chất thêm một lần nữa. Nhưng nếu đúng như anh nói, thì dự án có thể trình lên cấp thành phố vào cuối quý này. — kiến trúc sư còn lại thêm vào.
Lương Tri mỉm cười nhẹ, cảm thấy như có gió biển thổi vào cả trong lòng. Một kế hoạch đầy tham vọng nhưng cũng đầy lòng trắc ẩn. Họ thống nhất tháng Bảy năm sau sẽ là thời điểm bắt đầu khởi công. Thời gian đủ để điều chỉnh, xin phép và huy động nhân lực. Và quan trọng hơn... là chuẩn bị lòng người.
Cảnh chuyển về thành phố.
Kỳ Anh ngồi bên bàn học, ánh nắng xiên qua khung cửa sổ, rọi lên cuốn sổ tay cậu đang viết dở. Dưới dòng chữ “Ghi chú môn Kinh tế phát triển” là hàng loạt nét viết ngoằn ngoèo khác — những suy nghĩ vụn vặt về Lương Tri.
Cây đàn guitar đã không còn ở góc tường, mô hình thuyền thủy tinh cũng không còn. Chỉ còn lại một không gian lặng thinh, và một chiếc ảnh rơi ra từ quyển album mấy hôm trước... người mẹ lạ mặt ấy.
Cậu khẽ thở dài, bật máy tính tra cứu về các trận bão lớn cách đây hơn mười năm ở vùng ven biển phía Nam. Cái tên “Hạ Ôn Lương” xuất hiện nhiều lần. Có một con tàu mất tích, có những người dân không bao giờ trở lại... Cậu đánh dấu lại, lưu toàn bộ thông tin.
Kỳ Anh không chắc Lương Tri đã từng trải qua điều gì. Nhưng linh cảm mách bảo cậu rằng, có những ký ức anh ấy muốn quên — và cũng có những ký ức đáng được tìm về.
Bước ra khỏi phòng, cậu đi đến tiệm sách gần trường, mua một cuốn sổ mới. Bìa ngoài có hình chiếc thuyền giương buồm giữa hoàng hôn. Cậu đặt tên cho nó là:
“Mảnh Ghép Lương Tri”
Cậu không biết mình sẽ tìm ra được gì... nhưng cậu tin rằng, khi những mảnh ghép ấy đủ đầy, thì trái tim của ai đó cũng sẽ nhẹ nhõm hơn, và biết đâu, cậu cũng hiểu được... vì sao mình lại luôn hướng về người ấy đến vậy.
Một buổi chiều tan học, Kỳ Anh ghé ngang qua thư viện thành phố, tay cầm ly hồng trà còn ấm. Cậu tìm đến phòng lưu trữ báo cũ, lòng chợt dấy lên thôi thúc phải tìm hiểu sâu hơn. Trong hàng xấp tài liệu mục lục về các vùng ven biển từng chịu ảnh hưởng thiên tai, cậu bắt gặp một bài báo cũ kỹ, giấy đã ngả vàng, dòng tít nhỏ nhưng khiến tim cậu khựng lại:
“Tàu cá số hiệu L-07 mất tích sau bão lớn tại vùng biển Hạ Ôn Lương. Một số thuyền viên không trở lại, trong đó có cả một người cha và đứa con trai nhỏ tuổi sống sót kỳ diệu...”
Cậu nhìn chằm chằm vào dòng chữ, những ký ức mơ hồ ùa về — tuổi thơ nơi làng chài ấy, người bà bán cá hay nắm tay cậu đi dọc bờ kè, nơi bọn trẻ cùng chơi thuyền giấy sau cơn mưa. Cái tên Hạ Ôn Lương vang lên... thật quen thuộc. Nhưng trí nhớ cậu như tấm khăn bị ướt mưa, mờ nhòe và lộn xộn. Ký ức về bà thì rõ ràng, nhưng bà chưa từng nhắc nhiều về quê, chỉ nói rằng:
“Mai này lớn, con sẽ biết, quê mình đẹp và buồn lắm.”
Cậu khẽ lẩm bẩm:
— Lương Tri... anh đến từ đâu?
Một mặt, cậu cảm thấy anh ấy giống như người làng, từ cách anh nhìn biển, từ ánh mắt khi kể về những cơn bão và con tàu, đến cả sự trân trọng dành cho những người dân làng chài. Nhưng không một lần nào Lương Tri nhắc rõ về nơi anh từng sinh ra. Cậu chỉ biết, anh ấy mất mẹ từ nhỏ, và cha mất trong cơn bão lớn. Những điều đó… cũng thật quen thuộc với một người nào đó mà bà từng nhắc đến — “Đứa trẻ mất mẹ trong cơn bão năm xưa...”
Kỳ Anh rời thư viện với những mảnh ghép rời rạc.
Cậu đi dọc con phố có hàng phong đang ngả đỏ, gió đưa cánh lá rơi chạm vai. Cậu khẽ siết chặt cuốn sổ tay "Mảnh Ghép Lương Tri" trong tay.
“Mình và anh ta… có phải đã từng sống cùng một nơi? Mà sao không ai nói cho mình biết?”
Trong lòng Kỳ Anh trào lên nỗi băn khoăn, nhưng cũng đầy hy vọng. Cậu quyết định cuối tuần này sẽ xin nghỉ một ngày, thử về quê… như lời bà dặn trước đó. Dù chỉ là linh cảm, nhưng biết đâu — có một điều gì đó đang đợi cậu tìm về.
Một buổi sáng thứ Bảy lặng lẽ, trời vừa hửng nắng, Kỳ Anh ngồi gác chân trên ghế sofa, cuốn vở ghi chép mở sẵn bên cạnh. Cậu nhấp một ngụm hồng trà, tay lần mò mở điện thoại như thói quen mỗi sáng cuối tuần. Thư mới, tin tức, vài dòng bình luận từ nhóm học… rồi bỗng nhiên, một tiêu đề bài báo nổi bật khiến tim cậu lỡ một nhịp:
“Dự án cảng biển mới tại Hạ Ôn Lương: Bước tiến chiến lược cho kinh tế miền Duyên Hải.”
Đôi mắt cậu dừng lại nơi ba chữ Hạ Ôn Lương. Tay siết chặt điện thoại.
Cậu lập tức nhấn vào bài viết. Từng dòng chữ cứ thế hiện ra, như những con sóng đánh thẳng vào tâm trí:
“...Dự kiến triển khai giữa tháng 7 năm sau, dự án kết hợp cải tạo mô hình đất đai, phát triển giao thương và mở rộng tiềm năng vùng biển nước sâu tại phía Tây Hạ Ôn Lương. Người đại diện phụ trách chính: Ông Hứa Lương Tri – Giám sát dự án liên kết...”
Kỳ Anh lặng người.
Anh ấy chưa từng nói gì cả. Chỉ bảo là chuyến công tác về quê. Chỉ bảo là nghỉ phép. Mà cậu… lại chẳng hề nghi ngờ gì.
Cậu vùng dậy, gần như chạy vội vào phòng làm việc nhỏ. Những xấp giấy, mô hình, ghi chú, cả bản thiết kế sơ lược mà Lương Tri để lại trước khi đi — tất cả vẫn còn đây. Cậu khẽ lật từng trang, từng bản đồ, những đường kẻ nét đỏ, ký hiệu vùng đất ven biển hình chữ U…
Đúng là vùng đó. Là Hạ Ôn Lương.
Cậu bàng hoàng. Hơi thở gấp gáp, trí óc như muốn đảo lộn.
Tại sao anh ấy lại giấu? Vì không tin tưởng cậu sao? Hay... không muốn cậu biết mình và anh có chung một miền ký ức?
Cậu ngồi thụp xuống nền gỗ, những bản vẽ nằm rải rác xung quanh như những mảnh ghép bị gió cuốn đi.
Tim đập mạnh, cảm xúc vỡ vụn giữa ngờ vực, tổn thương, nhưng đâu đó… vẫn là một niềm hy vọng cháy âm ỉ:
“Anh về đó, là vì dự án… hay là vì chính quá khứ của mình?”
Cậu đưa tay lên trán, thở dài, mắt khẽ chạm vào mô hình con thuyền trong lọ thủy tinh — vị trí nó từng nằm giờ chỉ còn lại lớp bụi mỏng.
Không biết anh có còn giữ nó không… hay đã đặt nó giữa mảnh đất quê nhà?
Kỳ Anh đứng dậy, tay siết chặt tập hồ sơ. Cậu quyết định… chuyến đi về quê sẽ không chỉ là trở về ký ức, mà còn là tìm câu trả lời thật sự từ chính người con trai ấy.
Buổi sáng hôm đó, trời dịu nhẹ như một bản tình ca. Gió se se thổi qua ô cửa, Kỳ Anh bật máy tính, trong lòng vẫn còn bối rối vì tin tức về kế hoạch phát triển ở Hạ Ôn Lương. Cậu nhìn xuống tập hồ sơ cũ mà Lương Tri từng để lại trên kệ sách. Lúc ấy, anh chỉ nói là vài dự án nhỏ của công ty, không đáng để cậu bận tâm. Nhưng giờ thì cậu biết — chính là quê hương mình.
Cậu mang theo tất cả giấy tờ và một vài món đồ quan trọng, trong lòng quyết tâm phải tìm cho được lời giải. Tối đó, cậu đặt vé tàu về quê, về với Hạ Ôn Lương, lòng đầy thấp thỏm. Một phần vì dự án, một phần vì Lương Tri.
Cảnh vật quen thuộc hiện ra sau ô cửa tàu. Những cánh đồng muối trắng trải dài, rặng phi lao xào xạc trong gió, mùi biển lồng lộng thổi ùa vào như ôm lấy trái tim Kỳ Anh. Cậu không báo trước với bà. Cậu muốn xem liệu có thể gặp lại ai đó... và tìm ra mảnh ghép còn thiếu.
Phần 1: Gặp lại
Kỳ Anh đứng trước hiên nhà, một buổi chiều rực nắng vàng. Con đường làng Hạ Ôn Lương dẫn cậu về lại nơi từng là ký ức tuổi thơ — mơ hồ nhưng không thể quên. Những ngôi nhà nhỏ thấp thoáng bóng dừa, tiếng sóng vỗ từ xa vọng lại như bản hòa âm cũ kỹ, thân thuộc đến lạ. Bên tay cậu là chiếc vali nhỏ, còn tim thì nặng trĩu bao câu hỏi chưa lời đáp.
Trái tim cậu đập dồn khi cánh cổng gỗ mở ra.
Người đứng trước mặt cậu là anh — Hứa Lương Tri. Vẫn là ánh mắt ấy, gương mặt ấy, nhưng giờ lại thoáng nét hoang mang không thể giấu.
“Em… về rồi à?” – giọng anh khàn, nhẹ như gió biển.
Kỳ Anh nhìn anh không chớp, đôi môi khẽ mím lại. Cậu không đáp, chỉ lặng lẽ gật đầu. Cái gật đầu như một cơn sóng dội ngược vào anh. Anh cúi xuống, giấu đi ánh nhìn, như thể sợ cậu sẽ thấy điều gì đó từ sâu thẳm bên trong.
Từ trong nhà, một giọng già yếu vang lên — giọng nói quen thuộc mà bao đêm Kỳ Anh vẫn nghe qua điện thoại:
“Lương Tri, ai đến thế con?”
Người bà chống gậy bước ra, ánh mắt vừa lướt qua đã dừng lại nơi Kỳ Anh.
Bà lặng người. Rồi bỗng bật thốt:
“Trời ơi… Kỳ Anh? Là cháu bà đó sao?”
Cậu nhìn bà, đôi chân như không còn vững. Cậu chạy đến ôm lấy bà, như ôm trọn cả miền ký ức vỡ òa.
Bà run rẩy ôm cậu vào lòng, nức nở như gặp lại đứa cháu lạc mất bao năm.
Lương Tri lặng lẽ nhìn hai người, ánh mắt cay xè. Anh quay đi, để gió biển hong khô khóe mắt đã hoe đỏ.
Phần 2: Mảnh ghép hoàn chỉnh
Buổi tối hôm ấy, cả ba cùng ngồi bên bàn ăn đơn sơ. Mâm cơm giản dị với cá kho, canh chua và rau luộc, hệt như những bữa ăn Kỳ Anh từng nhớ. Nhưng không khí chẳng thể thoải mái. Cậu liên tục nhìn Lương Tri, chờ đợi anh mở lời, nhưng anh chỉ lặng lẽ gắp rau, không nói lấy một câu.
Sau bữa ăn, bà về phòng nghỉ sớm. Căn nhà trở nên yên ắng. Chỉ còn hai người ngồi bên hiên, gió biển đưa mùi muối lặng lẽ len vào từng khoảng trống giữa họ.
“Vì sao anh không nói cho em biết?” – Kỳ Anh cất tiếng, mắt không rời đường chân trời mờ xa.
Lương Tri giật nhẹ mình.
“Em nói về chuyện gì?”
“Về quê anh, về dự án, về… cả bà.”
Lương Tri im lặng. Hồi lâu sau, anh đáp bằng một giọng mệt mỏi:
“Anh không muốn em biết... vì anh không dám.”
“Không dám?” – Kỳ Anh nhìn anh, ánh mắt sắc như sóng biển cuộn.
Lương Tri ngẩng đầu, cười nhẹ, nụ cười chứa đầy đau thương.
“Anh biết sớm muộn gì em cũng nhận ra. Nhưng anh không biết phải đối diện thế nào. Em là cháu của bà… và anh cũng thế.”
Kỳ Anh sững người. Cậu đã linh cảm điều đó. Nhưng khi nghe anh nói ra, tim vẫn đau như có ai siết chặt.
“Vậy… tại sao anh lại im lặng?”
Lương Tri quay đi, đôi mắt ngân ngấn nước.
“Vì anh sợ. Sợ nếu em biết, em sẽ lùi lại. Em sẽ nhìn anh bằng ánh mắt khác. Anh không muốn giữa chúng ta có bất cứ rào cản nào, kể cả huyết thống bên ngoài…”
Cậu lặng người.
“Chúng ta… không phải anh em máu mủ mà.”
“Anh biết.” – Lương Tri mỉm cười – “Nhưng bà là điểm giao nhau. Và với anh, bà là cả thế giới.”
Hai người ngồi dưới hiên nhà, nơi trăng sáng vằng vặc soi xuống mặt đất. Cùng lúc bà lại buồn ra ngoài cùng chúng tôi. Bà kể những câu chuyện ngày xưa, chuyện về làng chài, về những người đã khuất và cả những đứa trẻ bà từng nuôi nấng.
– Năm ấy, bà nhận nuôi một đứa nhỏ. Nó mồ côi mẹ, cha mất sau cơn bão lớn. Bà thương nó lắm... – Bà nhìn xa xăm, giọng chùng xuống.
Kỳ Anh quay sang Lương Tri.
– Đó là anh sao?
Lương Tri khẽ gật đầu, nhưng vẫn im lặng. Anh nhìn đi nơi khác.
– Tại sao... tại sao anh không kể với em?
– Có những chuyện… – Anh nuốt nghẹn – Anh không biết bắt đầu từ đâu.
– Anh cũng không nói với em quê anh là Hạ Ôn Lương. Dự án đó… anh là người lập ra sao?
Lương Tri siết chặt bàn tay trên đầu gối, gật nhẹ.
– Phải. Nhưng anh giấu em vì không muốn em bận tâm. Anh không ngờ… quê chúng ta lại trùng khớp.
Kỳ Anh quay sang bà, giọng run run:
– Bà ơi… sao con lại cảm thấy… mọi chuyện như một vòng tròn định mệnh vậy?
Bà chỉ cười hiền.
– Đôi khi, ông trời dẫn dắt những đứa trẻ của bà về lại bên nhau… để hoàn thiện những mảnh vỡ xưa cũ.
Lương Tri lúc đó nhìn bà thật lâu, mắt đỏ hoe.
– Con xin lỗi… vì con đã tránh né quá khứ. Vì con sợ, nếu con nói ra, mọi thứ sẽ vỡ tan.
– Ngốc à. – Bà vỗ nhẹ lên tay anh – Đời người ai không có vết thương? Quan trọng là mình có can đảm để đối diện và chữa lành nó hay không.
Đêm hôm ấy, ba người ngồi rất lâu dưới hiên. Gió thổi qua tấm mành tre kêu xào xạc như lời thì thầm của thời gian. Mọi cảm xúc bị dồn nén giờ dần vỡ òa. Dưới ánh trăng, những mảnh ký ức rơi rớt nay được nhặt lại, từng chút, từng chút một.
Một khởi đầu mới cũng từ đó mà mở ra.
Đến một lúc lặng, bà vào trong nhà để pha ít trà, kỳ Anh hỏi rất nhiều về Lương Tri, về com người anh, về dự án mới...
Lương Tri đứng như hóa đá sau câu hỏi của Kỳ Anh. Trong khoảnh khắc bối rối, tấm ảnh nhỏ trong túi áo anh rơi xuống sàn gạch mát lạnh, khẽ lật nghiêng, để lộ khuôn mặt non trẻ của một thiếu niên — chính là Kỳ Anh năm mười sáu tuổi, đứng giữa sân trường với nụ cười ngây thơ.
Kỳ Anh nhìn chằm chằm tấm ảnh, khựng lại vài giây rồi cúi xuống nhặt lên, giọng nghẹn lại:
— Đây... là ảnh tôi. Sao anh lại có ảnh này?
Lương Tri không nói, chỉ gục đầu, đôi tay khẽ siết lấy nhau như để giữ lấy điều gì đó đang rạn vỡ trong lồng ngực. Gió ngoài sân thổi qua cửa sổ lùa vào căn nhà nhỏ, thổi bay những góc ký ức anh từng giấu kỹ trong lòng.
Kỳ Anh lặp lại, lần này giọng cao hơn, gấp gáp hơn:
— Tại sao anh lại có ảnh của tôi? Rốt cuộc anh là ai? Và... sao anh không nói cho tôi biết... về bà?
Câu nói ấy như lưỡi dao lật tung những lớp thời gian được che phủ bằng im lặng. Đúng lúc đó, tiếng dép lẹp xẹp vọng lại từ hành lang sau nhà. Bà của họ bước ra, dáng người gầy gò nhưng vẫn vững chãi, gương mặt hiền hậu nay đã đượm buồn.
— Là bà. — Bà nhẹ nhàng lên tiếng tay cầm ấm trà đặt nhẹ xuống bàn, giọng trầm, nhưng từng chữ như chạm sâu vào từng góc lòng của cả hai.
— Là bà đã nhờ nó lên thành phố, tìm cháu. Là bà đưa nó tấm ảnh đó... Bà xin lỗi vì đã không nói với cháu sớm hơn.
Kỳ Anh sững sờ, ánh mắt chuyển từ bà sang Lương Tri, rồi lại nhìn tấm ảnh trong tay.
— Ngày đó, sau cơn bão, bà tưởng đã mất tất cả. Nhưng rồi lại tìm được cháu. Kỳ Anh à, bà không muốn ai trong hai đứa phải tổn thương. Bà chỉ nghĩ... nếu hai đứa gặp nhau, sẽ tự hiểu ra, tự bước vào đời nhau một cách tự nhiên. Nhưng... bà đã sai rồi, đúng không?
Lương Tri rốt cuộc cũng ngẩng đầu lên, giọng khàn khàn:
— Cháu không dám nói, vì cháu sợ... sợ nếu em biết, em sẽ rời xa cháu. Em là người đầu tiên cho cháu cảm giác được sống lại, được tin tưởng, được nhìn thấy tương lai...
Kỳ Anh siết chặt tấm ảnh trong tay, ngực phập phồng với hàng loạt cảm xúc không tên. Cậu nhìn bà, rồi nhìn người con trai đang khốn khổ đứng trước mình. Mọi thứ trong cậu như rối tung, nhưng sâu trong đáy mắt, vẫn còn ánh sáng dịu dàng.
“Lý do con không biết về thằng Tri... là vì lúc ấy con còn nhỏ, đang sống với cha con trên thành phố. Năm đó, nhà thằng Tri gặp biến cố... mẹ nó mất tích trong cơn bão, cha nó cũng không còn. Bà không nỡ để nó bơ vơ nên mang về nuôi nấng... Nhưng khi con lớn lên, con lại lên thành phố học, rồi ở hẳn ngoài ấy. Còn thằng Tri, nó lớn lên xong cũng khăn gói lên thành phố làm ăn. Hai đứa cứ ngược đường nhau như vậy suốt bao năm.”
Bà quay sang nhìn hai người cháu, ánh mắt hiền từ:
“Chỉ có bà là người duy nhất ở lại, là người nhớ rõ từng đứa, từng khuôn mặt lúc còn đỏ hỏn tới khi biết nói tiếng đầu tiên. Bà đã mong có một ngày hai đứa gặp lại nhau… nhưng không ngờ lại là theo cách này.”
Lương Tri lặng lẽ siết chặt đôi bàn tay, còn Kỳ Anh thì như nuốt không trôi cảm xúc, một mảng ký ức mơ hồ trong đầu cậu như vừa được chắp lại — một mùi biển mặn, một vòng tay ôm dịu dàng, và giọng nói khe khẽ ru cậu ngủ, thật giống giọng của bà…
“Bà... vẫn luôn bên con,” Kỳ Anh khẽ thì thầm.
Còn tiếp không bạn? Hay bạn muốn chuyển sang một đoạn khác trong mạch truyện?
Lúc Kỳ Anh đưa tấm ảnh ra, trời đã ngả chiều, ánh nắng cuối ngày rọi qua khung cửa nhuộm màu vàng nhạt lên gương mặt cả hai. Lương Tri nhận lấy tấm ảnh bằng đôi tay chậm rãi, ánh mắt thoáng rung động. Anh nhìn tấm hình một lúc lâu, không nói gì, rồi ngước lên, ánh mắt hơi đỏ.
“Là mẹ tôi,” anh khẽ đáp, giọng trầm xuống, “...tấm ảnh này là một trong số ít những gì còn sót lại sau cơn bão năm đó.”
Kỳ Anh nhìn anh, lòng đầy nỗi khó hiểu. “Bà ấy giờ đang ở đâu?”
Lương Tri siết nhẹ tấm ảnh, im lặng thật lâu, như đang lắng nghe một điều gì đó trong quá khứ vọng về. Cuối cùng, anh lắc đầu, nụ cười buồn hiện lên:
“Tôi cũng không biết nữa... Sau cơn bão, không ai tìm được mẹ tôi. Có người nói bà đã mất... nhưng tôi vẫn luôn tin bà còn sống, đâu đó, ngoài kia. Tôi trở về đây cũng vì một phần hy vọng – hy vọng có thể lần ra dấu vết gì đó, hoặc ít nhất... hiểu rõ hơn những chuyện đã xảy ra.”
Kỳ Anh nắm chặt quai ba lô, môi mím lại. Cậu cảm thấy trái tim mình như bị kéo căng giữa những mảnh vỡ ký ức và sự thật chưa hoàn chỉnh.
“Tôi sẽ giúp anh tìm,” Kỳ Anh khẽ nói, “khi tôi học xong. Tôi hứa.”
Lương Tri không đáp, nhưng trong ánh mắt anh lúc đó, có một điều gì rất dịu dàng, rất biết ơn — như một đốm lửa nhỏ vừa được thắp lên trong những tháng ngày u tối.
Kỳ Anh quay bước ra xe buýt về thành phố, không quay đầu lại, nhưng trong tim cậu, hình bóng người con trai đó — cùng với những bí mật chưa lời giải — đã khắc sâu đến không thể xoá nhòa.
Kỳ Anh bước vào quán mì, một làn hương nghi ngút lan toả giữa không gian mộc mạc, ấm áp như lòng bàn tay ai đó đặt lên vai cậu lúc còn nhỏ. Cây phong ngoài cửa khẽ lay theo gió, những chiếc lá đỏ rơi nhẹ nhàng như lời chào.
Người phụ nữ bước ra từ trong bếp, tay áo xắn cao, nụ cười tỏa sáng như ánh nắng ban trưa. “Cháu đi đường xa à? Ngồi xuống đi, ăn tô mì cho ấm bụng.”
Cô bé con gái nhỏ của cô nấp sau cánh cửa rồi tò mò chạy ra, đôi mắt trong veo như biển ngày lặng sóng. Kỳ Anh khẽ cúi đầu chào, lòng chợt se lại.
Người phụ nữ ấy… có nét gì đó quen thuộc lạ kỳ. Mái tóc, ánh mắt, cả cách cười dịu dàng ấy – như từng gặp đâu đó trong giấc mơ hay trong một tấm ảnh cũ. Cậu nhớ lại tấm ảnh mẹ của Lương Tri, bế anh ấy lúc chỉ vài tuổi, tay còn cầm một con cá hồi nhỏ — dáng vẻ giản dị, nhưng trong ánh mắt lại tràn đầy yêu thương.
Kỳ Anh ngồi xuống chiếc ghế gỗ cũ gần cửa, ngước nhìn lên sườn dốc phía sau quán. Từ đây có thể thấy biển. Bên dưới là mái ngói nhấp nhô của làng chài, những mảng màu thời gian phủ trên từng căn nhà, từng bờ tường loang gió.
Cậu không nói gì, chỉ lặng lẽ đón lấy tô mì nghi ngút khói mà người phụ nữ đặt trước mặt. “Cháu cứ ăn thoải mái. Đây là món mẹ cô truyền lại, ai ăn cũng khen cả,” chị mỉm cười.
“Dạ, cảm ơn cô.” Kỳ Anh gật đầu, rồi cầm đũa lên, nhưng ánh mắt thì vẫn nhìn đăm đăm về phía người phụ nữ ấy – lòng ngổn ngang suy nghĩ.
Phải chăng… chỉ là người giống người? Hay ký ức của Lương Tri đã từng có nơi này? Có người phụ nữ này? Cậu chưa thể biết, chỉ cảm thấy có gì đó rất sâu, rất rộng đang dần thức dậy trong mình.
Ngoài cửa, gió biển thổi nhẹ. Lá phong lại rơi thêm một chiếc, chạm vào bậu cửa rồi lặng lẽ nằm yên như một điều gì đó vừa được khơi dậy – chờ ngày được gọi thành tên.
“Cô sống ở đây lâu chưa ạ?” Kỳ Anh hỏi, cố giữ giọng thật tự nhiên.
Người phụ nữ đặt khăn lên bàn, nhìn cậu, ánh mắt thoáng chút suy nghĩ. “Cũng gần hai mươi năm rồi, từ sau một cơn bão lớn... Cô ở lại luôn.”
Kỳ Anh khựng lại. Cơn bão? Cậu nghe thấy quen lắm. Là cơn bão đã cướp đi cha Lương Tri sao?
“Vậy… cô có từng gặp một đứa trẻ được cứu sống từ tàu đánh cá không ạ? Khoảng hơn mười lăm năm trước…” – cậu hỏi, giọng chậm rãi như sợ đánh thức điều gì đó ngủ quên.
Người phụ nữ khựng lại đôi chút, rồi lại mỉm cười như thể tránh né. “Có nhiều người đến đây lắm cháu à, cô cũng chẳng nhớ hết được.”
Một cái lắc đầu nhẹ, nhưng trong ánh mắt chị, Kỳ Anh thấy có một thứ gì đó… như phòng bị.
Cô bé con chạy lại níu váy mẹ. Người phụ nữ vội cúi xuống, xoa đầu bé, rồi nói: “Cháu ăn xong thì đi sớm kẻo trễ. Đường lên thành phố giờ đông xe lắm.”
Kỳ Anh gật đầu, đứng dậy trả tiền. Khi bước ra khỏi quán, cậu quay đầu nhìn lại – cây phong đỏ rực như đang giữ chặt những bí mật mùa cũ. Người phụ nữ đứng đó, cạnh cửa, tay nhẹ vuốt mái tóc con gái, đôi mắt nhìn về phía biển xa xăm, lặng lẽ.
Cậu không biết tại sao, nhưng một cảm giác lạ xâm chiếm lấy tim mình – như thể một phần câu chuyện của Lương Tri đang nằm lại nơi này.
Kỳ Anh bước tiếp, nhưng lòng thì bị giữ lại phía sau, giữa mùi mì thơm, nụ cười dịu dàng, và một đôi mắt lấp lánh điều chưa kể.
Cậu thấy đoạn tiếp như vậy ổn không? Mình có thể phát triển thêm theo hướng Kỳ Anh bí mật quay lại tìm hiểu về người phụ nữ ấy, hoặc để Lương Tri sau này trở về và phát hiện dấu vết người thân đã mất.
Dưới tán phong rực đỏ rơi lả tả những chiếc lá cuối mùa, tiếng bước chân của Kỳ Anh dần khuất nơi con hẻm nhỏ dẫn xuống đường lớn. Tiếng xe xa dần. Người phụ nữ đứng lặng phía cửa quán, bàn tay vô thức siết nhẹ chiếc khăn lau tay đã cũ.
Đôi mắt ấy dõi theo cho đến khi không còn thấy bóng dáng cậu nữa… rồi khẽ rũ xuống.
Chị quay vào, dặn cô bé con chơi ngoan, rồi lặng lẽ bước lên con dốc sau nhà, con dốc đã quá quen, mỗi bước chân như dẫm lên bao mùa đợi chờ.
Biển chiều nay hiền hoà đến lạ. Mặt biển xanh sẫm, những con sóng trầm mặc vỗ nhẹ vào bờ đá. Gió thổi vờn qua mái tóc chị, lùa qua vạt áo mỏng, mang theo mùi vị mặn nồng của ký ức.
Người phụ nữ ngẩng mặt nhìn trời, đôi mắt nhòe lệ.
“Mẹ đã ở đây, mẹ vẫn luôn ở đây...”
Chị nói trong hơi thở, như lời hứa, như một nỗi day dứt không thể gọi tên.
“Mẹ hứa… sẽ trở về… với con.”
Gió cuốn lời thì thầm đi xa, mang theo nỗi nhớ chưa từng cũ, và một tình mẫu tử chưa từng đứt đoạn… dù đã qua gần hai mươi năm chờ đợi.
Một cánh chim hải âu vụt bay qua, trắng muốt giữa nền trời chạng vạng. Phía xa, biển vẫn hát. Trái tim người mẹ vẫn đợi. Và đâu đó… định mệnh đang lặng lẽ dệt nên một khúc nhạc đoàn viên.
Dưới ánh chiều xám đục, giọng kể của người dẫn chuyện vang lên, như lời thì thầm từ quá khứ xa xăm vọng về:
"Biến cố năm ấy, là một vết khắc không thể phai trong ký ức những người ở Hạ Ôn Lương. Một cơn bão biển bất ngờ ập đến, dữ dội và tàn khốc, nuốt chửng hàng chục con tàu đánh cá ngoài khơi. Trong số đó… có một người phụ nữ tuyệt vọng lao vào làn sóng dữ, tìm lại chồng và con trai nhỏ của mình."
Gió gào thét, sóng đập tung trời. Đêm đen cuồng loạn như nuốt chửng lấy tất cả sự sống ngoài khơi. Giữa khung cảnh hỗn loạn đó, người phụ nữ ấy – tóc rối, mắt giăng lệ, hai tay quơ vào vô định – nhảy xuống từ mũi tàu tuần tra. Trong ánh đèn pha chớp tắt, cô gào tên con trai mình đến khản cổ, gào tên chồng – nhưng đáp lại chỉ là tiếng gió và sóng rít căm hờn.
Cô thấy chiếc thuyền quen thuộc đang chìm dần. Thấy những ngư dân nhảy xuống, hoảng loạn, vật vã trong nước. Nhưng cô không màng gì nữa – chỉ có một điều trong đầu: con trai mình… vẫn còn đâu đó ngoài kia.
Người phụ nữ lao về phía đống hỗn loạn, làn nước lạnh cắt da thịt, tay quờ tìm giữa hàng chục người đang vùng vẫy. Một bàn tay nhỏ, một mảnh áo quen thuộc, một hơi thở – cô hy vọng điều đó như kẻ mộng du, chỉ để cố tìm thấy con mình giữa biển chết.
Rồi... một đợt sóng lớn quật ngược cô đi.
Bóng cô mất hút giữa biển.
Cuộc điều tra sau đó kéo dài nhiều tháng. Người dân lặng người khi báo chí đăng tải danh sách nạn nhân. Cái tên của người phụ nữ ấy – vợ của một ngư dân thiệt mạng, mẹ của một đứa trẻ chưa tìm thấy – được ghi lại như một nốt trầm lặng lẽ giữa muôn nỗi tang thương.
Người ta bảo rằng… cô đã thiệt mạng, mất tích cùng xác tàu ngoài khơi phía nam.
Nhưng...
Phép màu đôi khi tồn tại như một món nợ chưa kịp trả.
Người phụ nữ ấy không chết. Trong cơn mê man giữa biển, cô bị một dòng xoáy cuốn trôi xa khỏi tâm bão, ra tận vùng biển phía đông – nơi không ai ngờ đến. Lúc được một ngư dân vớt lên, cô không còn sức mà thở. Nhưng cô còn sống.
Sống... để bắt đầu một cuộc hành trình khốc liệt khác: đi tìm con mình.
Năm tháng trôi đi, cô sống ẩn mình ở một vùng ven biển khác, mở một quán ăn nhỏ, nuôi dạy đứa con gái nhỏ của một gia đình ngư dân đã cứu cô nhưng không qua khỏi. Trong cô là một lời thề không bao giờ phai nhạt: tìm lại con trai, tìm lại đứa trẻ từng biến mất trong sóng dữ, tìm lại quá khứ tưởng như đã vùi dưới đáy biển sâu…
Không ai biết, không ai ngờ, người mẹ ấy – người phụ nữ của quá khứ – giờ đang lặng lẽ tồn tại giữa đời thường, với một nụ cười ấm áp… và đôi mắt luôn đau đáu về một nơi có tên gọi: Hạ Ôn Lương.
_______xem full tiểu thuyết tại kênh của minh nha "Con tàu về đêm"______________