Làng tôi có một căn nhà cũ kỹ nằm cuối con dốc, nơi chẳng ai dám bén mảng sau hoàng hôn. Người ta bảo, nơi đó từng có một gia đình sống — người mẹ, và đứa con trai tật nguyền. Họ chết trong một vụ hỏa hoạn cách đây đã hơn hai mươi năm.
Tôi là nhân viên bưu tá, công việc yêu cầu phải giao thư tận tay. Hôm ấy trời đổ mưa, tôi được giao một lá thư kỳ lạ, không đề tên người gửi, chỉ ghi vỏn vẹn: “Giao đúng nhà số 17, cuối dốc, đừng mở thư.”
Tôi do dự. Nhà số 17 chính là căn nhà ma ám năm xưa.
Tối hôm ấy, tôi quyết định đem thư đến, phần vì tò mò, phần vì trách nhiệm. Gió gào rít, mưa táp vào mặt, tôi rảo bước đến trước cánh cổng han gỉ. Căn nhà tối om, nhưng... đèn ngoài hiên chợt bật sáng. Cánh cửa mở hé, như thể đang mời gọi.
Tôi run tay, đặt lá thư vào khe cửa, định quay đi thì... cốc cốc cốc — tiếng gõ vọng ra từ bên trong. Tôi giật mình. Không ai trả lời. Nhưng tiếng gõ lại tiếp tục, đều đặn, vang vọng như lời gọi từ cõi khác.
Tôi bỏ chạy.
Sáng hôm sau, lá thư ấy lại nằm trong túi áo khoác tôi. Bất chấp việc tôi chắc chắn đã bỏ nó lại. Tôi hoảng hốt, đem đốt lá thư, nhưng tro vừa bay thì... tôi nghe tiếng gõ cửa sau lưng. Lạnh sống lưng, tôi quay lại. Không ai cả.
Kể từ đó, đêm nào tôi cũng nghe tiếng gõ cửa — ba tiếng, đều đặn lúc 12 giờ. Đến một ngày, tôi không chịu nổi, liều mình quay lại căn nhà cũ. Cửa mở toang, bên trong trống rỗng, chỉ có một bức ảnh cháy xém: người mẹ đang ôm chặt đứa con. Dưới ảnh, dòng chữ nguệch ngoạc: “Ai đó làm ơn... đưa thư cho con tôi. Nó chờ mãi chưa nhận được lời xin lỗi.”
Tôi chết lặng.
Từ đó, tôi vẫn nghe tiếng gõ mỗi đêm. Nhưng giờ, tôi hiểu — đó không còn là nỗi ám ảnh, mà là tiếng một linh hồn mẹ hiền, vẫn chờ một ai đó giúp bà hoàn thành điều dang dở.