London, năm 1896. Thành phố ngập trong sương mù, khói tàu và sự im lặng của những điều không bao giờ được nói ra. Tôi là Elisabeth Morrow họa sĩ hiện trường vụ án, nhưng đó chỉ là vỏ bọc. Tôi vẽ vì ký ức không thể nhớ lại bằng lời. Vì tôi biết, có những sự thật không tồn tại trong biên bản cảnh sát… chỉ hiện ra trên mặt người chết.
---
Đêm hôm đó, tôi được gọi đến khu Whitechapel. Một căn phòng trọ rách nát, bốc mùi ẩm mốc và mồ hôi cũ kỹ. Trên sàn là thi thể của một người đàn ông trung niên, không có giấy tờ tùy thân. Ông ta nằm như bị quăng xuống, cổ bị rạch một đường sạch sẽ. Không có dấu hiệu vật lộn. Trên cổ tay vẫn còn dấu dây thừng.
“Một kẻ lang thang, không ai quen. Có lẽ bị cướp,” viên cảnh sát trực hôm ấy nói, không chút quan tâm.
Tôi cúi xuống, vẽ lại hình dạng của thi thể. Nét dao trên cổ quá chính xác. Tôi từng vẽ những vụ giết người trong quân đội dao mổ của bác sĩ pháp y để lại vết tương tự. Tôi hỏi về hung khí.
“Không tìm thấy. Nhưng ai quan tâm chứ, hắn là rác rưởi mà.”
Tôi im lặng. Câu ấy đáng ra không phải phát ra từ miệng người giữ gìn công lý.
Khi tôi chuẩn bị rời khỏi hiện trường, một bé gái lặng lẽ xuất hiện ở đầu cầu thang. Mắt bé sâu, đen và rất tỉnh. Tay bé cầm chặt một mẩu giấy tranh vẽ bằng than. Một người đàn ông bị treo lên bằng dây thừng, trên đầu là một biểu tượng hình thánh giá bị lật ngược. Tôi ngồi xuống, hỏi tên bé. Em không trả lời. Chỉ nói một câu: “Họ sẽ giết cô nếu cô biết.”
Tôi cầm lấy bức tranh và về nhà. Không thể ngủ. Nét vẽ nguệch ngoạc, nhưng chi tiết kỳ lạ. Đặc biệt là… góc bên phải bức tranh, có ký hiệu hình con mắt mở biểu tượng của một nhà thờ đã bị bỏ hoang ở East End.
Tôi đến đó vào sáng sớm hôm sau. Nhà thờ đã đóng cửa từ năm 1886, sau khi Linh mục Anselm bị treo cổ trong phòng xưng tội. Vụ việc bị gói gọn trong mấy dòng tin, nguyên nhân: "bị trầm cảm tôn giáo kéo dài". Nhưng dân quanh đây rỉ tai nhau về những đứa trẻ từng sống trong trại trẻ mồ côi gắn liền với nhà thờ vài đứa biến mất không lý do. Không ai tìm. Không ai tin.
Trong sổ phác thảo, tôi bắt đầu ghi lại mọi thứ: vết khắc trên tường nhà thờ ký hiệu lặp đi lặp lại là chữ P, như trong Purification. Nơi phòng xưng tội, ván sàn lỏng lẻo. Tôi dùng dao gỡ ra. Bên dưới là hộp gỗ mục trong đó có một quyển nhật ký, và vài mảnh vải trẻ em dính máu.
Tôi run tay lật từng trang. Những đoạn nhật ký cuối cùng của Linh mục Anselm:
"Chúng không còn là con trẻ nữa. Chúng cần được thanh tẩy. Tôi làm việc của Chúa. Nhưng đôi mắt ấy… đôi mắt ấy sẽ không tha cho tôi."
Tôi đem chứng cứ đến sở cảnh sát. Thanh tra Durand nhìn tôi, mắt thâm quầng vì thiếu ngủ:
“Cô nghĩ một linh mục điên giết vài đứa trẻ, chuyện xảy ra mười năm trước, có gì quan trọng sao?”
Tôi nén giận:
“Không. Nhưng tại sao một đứa trẻ hiện tại lại vẽ lại chính xác điều đó? Và tại sao người đàn ông hôm qua chết cũng bị treo cổ như tranh bé gái vẽ?”
Durand lặng người. Anh đẩy lại cuốn sổ tay cho tôi.
“Tôi tin cô. Nhưng tôi không thể làm gì nếu không có bằng chứng hiện tại.”
Tôi thấy nó là một lời nói suông.
Tôi tiếp tục theo dấu riêng. Trong 6 tháng gần đây, có 11 người vô gia cư biến mất tại khu vực quanh nhà thờ. Không ai báo án. Nhưng tôi tìm được ba trong số họ từng đến các trại cứu tế có tên trong nhật ký Anselm.
Tôi vẽ sơ đồ, kết nối các điểm tất cả tạo thành hình chữ thập, với trung tâm là tầng hầm nhà thờ.
Tôi lẻn vào tầng hầm vào một đêm có sương. Dưới đó, tôi thấy các phòng bị khóa kín. Tôi dùng xà beng, phá được một phòng, mùi hôi thối xộc ra, lặng như đá. Trong phòng là xương người, xếp thành hình vòng tròn. Trên tường hàng chục bức vẽ của trẻ em, bằng máu.
Tôi rút lui, nôn đến kiệt sức.
Sáng hôm sau, tôi đến sở. Nhưng văn phòng của Durand trống trơn. Không ai biết anh ta đi đâu. Hồ sơ vụ Whitechapel bị rút khỏi hệ thống. Tôi về nhà thấy căn hộ bị lục tung. Sổ phác họa của tôi mất.
Ba ngày sau, một gói bưu phẩm đến. Bên trong là… ngón tay của bé gái hôm đó. Không ghi lời nào.
Tôi hiểu. Có ai đó rất mạnh đang dọn dẹp dấu vết. Có thể là cảnh sát. Có thể là Giáo hội. Có thể là cả hai.
Tôi rời London trong đêm, mang theo những bản sao tranh mà tôi từng giấu kỹ.
Tôi đến Paris, rồi Berlin. Tổ chức triển lãm dưới danh khác: The Orphan’s Eye “Con mắt mồ côi”. Trong đó, tranh tôi treo lẫn tranh của những đứa trẻ mất tích. Một bức ở chính giữa: “Giấc ngủ của Luật pháp” cán cân lệch, máu rỉ xuống, một đứa trẻ câm ngồi dưới chân, tay cháy đỏ.
Không ai hiểu hết tranh. Nhưng ai cũng cảm thấy bất an.
---
Nhiều năm sau, tôi quay lại London. Không còn ai nhớ vụ án Whitechapel. Nhà thờ bị phá để xây khu thương mại. Không còn bé gái nào, không còn thanh tra Durand. Nhưng trong những cơn ác mộng, tôi vẫn thấy bức tường đầy tranh máu, thấy ánh mắt của bé gái khi nói câu cuối cùng:
“Công lý không dành cho người như cháu. Luật pháp… là thứ họ dùng để ngủ yên.”
Tôi không còn vẽ hiện trường nữa. Giờ tôi vẽ ký ức. Và trong ký ức, công lý không mặc áo choàng trắng. Nó đội mũ trùm đầu, tay cầm cán cân gãy.
Vì pháp luật không phải là công lý. Và công lý, đôi khi chỉ được kể lại qua đôi mắt trẻ thơ khi không còn ai sống sót để nói.