Vào thời vua Lê Trung Hưng, nơi đất cố đô Hoa Lư, có hai chàng trai sinh cùng ngày, cùng giờ, cùng lớn lên bên dòng sông Hoàng Long uốn lượn quanh chân núi. Người dân gọi họ là Thiện và Kha – một người con của quan văn, một người con nhà dân dã, nhưng lớn lên lại như hình với bóng. Thiện học giỏi, dáng người mảnh mai, ánh mắt lúc nào cũng như chất chứa những điều sâu kín. Còn Kha khỏe mạnh, giỏi võ, cười hiền như nắng ban mai.
Từ tuổi thiếu thời, hai người đã thân thiết lạ lùng, như thể kiếp trước từng nắm tay nhau đi qua chiến trận. Họ cùng trèo đèo, lội suối, cùng đọc sách, cùng ngồi bên nhau khi trăng treo giữa trời như chiếc móng tay thượng cổ. Thiện từng nói:
“Nếu kiếp này không thể gọi nhau là tri kỷ, thì kiếp sau, ta sẽ nguyện cùng ngươi đi đến tận cùng bóng tối.”
Nhưng xã hội thời ấy không cho phép thứ tình cảm không tên giữa hai người con trai. Tin đồn về “hai chàng như đôi uyên ương lạc lối” lan khắp thành. Quan phủ nghi ngờ Kha làm loạn, cấu kết với Thiện để mưu đồ phản nghịch. Kha bị bắt, bị tra khảo dã man. Thiện tìm mọi cách minh oan cho người bạn thân, nhưng triều đình lại dùng chính mối quan hệ của họ như một bằng chứng tội lỗi.
Vào đêm rằm tháng Bảy, ngày mà người ta tin rằng cánh cửa âm dương mở ra, Kha bị xử trảm ngay trước cổng thành. Trăng đỏ như máu, gió thổi rít lên như tiếng khóc của oan hồn. Thiện không đến, nhưng người ta kể lại rằng ngay khoảnh khắc lưỡi dao chém xuống, trong gió vang lên một tiếng hét xé lòng:
“Nếu ngươi xuống âm ti, ta cũng nguyện đi theo!”
Ba ngày sau, Thiện gieo mình xuống giếng cổ trong đêm không trăng. Cây hoa giấy cạnh thành úa đỏ, lá rụng như máu nhỏ. Dân làng đắp mộ hai người sát bên nhau, nhưng đêm nào cũng nghe tiếng bước chân đi lại quanh thành, lúc gần, lúc xa.
Một trăm năm sau, khi Pháp chiếm thành, binh lính đào móng xây đồn thì phát hiện hai bộ hài cốt quấn chặt lấy nhau như không muốn rời. Dù chôn lại nhiều lần, đêm nào lính gác cũng thấy hai bóng người ngồi bên giếng, một mặc áo dài trắng, một áo chiến bào, cùng nhìn về phía trăng đỏ trên trời.
Người dân gọi họ là “Đôi Hồn Hoa Lư”, tin rằng hai chàng trai đã hóa thành linh hồn canh giữ vùng đất cổ. Nhưng vào mỗi rằm tháng Bảy, trăng máu lại lên, người ta thường thấy hai bóng ấy dắt nhau đi trong đêm, im lặng, tay trong tay, qua thành cũ, như chưa từng bị chia lìa
___________________
…Bọn nó thân thiết lạ lùng từ lúc còn trẻ, tựa như kiếp trước đã hiểu biết, trong chiến lũy quen qua được bìm tay nhau. Triển ta non cao, hai bên dãi đèo – một bên là sương sớm mờ đục, bên kia là ánh hoàng hôn rơi chậm trên mặt sông Hoàng Long uốn lượn như con rắn thần ngủ quên.
Hiến từng bảo:
“Nếu đời này ta không được sống cùng nhau dưới ánh mặt trời, thì xin kiếp sau, ta sẽ đợi ngươi dưới ánh trăng đỏ…”
Người dân trong cư xá thì thầm: có điềm, vì trăng vào đêm họ sinh ra không sáng trắng mà nhuộm màu máu, treo lơ lửng như mắt của vị thần cổ trấn giữ núi rừng. Càng lớn, tình cảm giữa Hiến và Kha càng khó che giấu. Một lần bên sông, có người thấy họ đứng sát nhau dưới bóng cây đa, tay nắm tay, môi mấp máy điều gì đó chỉ trăng mới nghe được.
Đến năm mười tám, lời đồn thổi thành lời buộc tội. Quan phủ cho rằng họ làm ô uế truyền thống, làm trái lẽ trời. Kha bị bắt khi đang luyện võ ngoài rừng, còn Hiến bị ép trở về làm chứng. Nhưng trong điện xét xử, Hiến chỉ nói một câu:
“Tội của chúng tôi, nếu có, là đã yêu.”
Ngày hành hình, trời đổ cơn mưa máu. Cỏ trong thành chuyển đỏ, giếng nước trong veo nay bỗng ngầu đục. Khi lưỡi đao chạm cổ Kha, Hiến hét lớn, lao vào, và tự kết liễu bằng chính thanh kiếm cận vệ.
Người đời chôn họ bên nhau, nhưng giếng cổ đêm đêm vang tiếng cười – tiếng cười nhẹ như nắng sớm, như hơi thở của Kha
Bạn sẽ thấy hai bóng người nắm tay nhau, đi giữa thành cổ Hoa Lư phủ mờ sương khói.