Mười bảy tuổi, Quang Anh gặp Duy lần đầu vào một chiều muộn tháng ba, khi nắng rót xuống con đường đất đỏ một màu vàng hanh nhẹ nhàng như nụ cười của cậu. Duy hay đi ngang qua nhà Quang Anh, mang theo đôi mắt to tròn nhìn trời, nhìn gió, nhìn hoa cà hoa cải rụng rơi, và… nhìn Quang Anh mỗi khi lén quay đầu lại.
“Mày nhìn người ta kiểu đó là lộ hết đấy,” thằng bạn trêu, nhưng Quang Anh chỉ cười. Một nụ cười mà sau này, Duy nói, là thứ khiến cậu ngẩn ngơ cả một mùa hè.
Tình đầu của họ không ồn ào, không lời tỏ tình, không cả cái nắm tay chính thức. Chỉ là ánh mắt dừng lại lâu hơn, là buổi trưa trốn học ngồi dưới gốc khế sau trường ăn cơm nắm chia đôi, là Duy mang cho Quang Anh cái bánh ú còn nóng và thì thầm: “Coi như tao nấu cho chồng.”
Rồi chiến tranh biên giới kéo về sát vách làng. Đám con trai trong làng bị kêu đi huấn luyện. Người lớn nói “chuyện nước nhà”, đám trẻ mười bảy mười tám chỉ biết lặng im.
“Chừng nào về?” Duy hỏi, môi run run dù trời không lạnh.
Quang Anh siết chặt tay cậu. “Chừng nào gió thổi qua bờ tre đầu làng, mày cứ đứng đấy, tao sẽ quay về.”
Duy cười, cố không khóc, “Vậy tao sẽ đợi.”
Rồi Quang Anh đi.
Mùa hè trôi qua, mùa đông đến, gió vẫn thổi qua bờ tre đầu làng. Duy đứng đấy mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm…
Người ta nói Quang Anh mất tích trong một trận càn quét. Không ai tìm thấy xác. Không ai biết còn sống hay không. Chỉ có một chiếc khăn tay lấm máu được gửi về, gói trong một hộp gỗ, với dòng chữ nguệch ngoạc:
"Cho người đợi phía sau."
Duy cầm chiếc khăn đó đi hết nửa đời người. Không ai chạm được vào tim cậu nữa. Duy vẫn ở lại căn nhà cũ, nơi bờ tre đầu làng, mỗi buổi chiều lại ra đứng nhìn gió thổi, thì thầm:
"Gió thổi rồi, mày đâu rồi Quang Anh?"
Cho đến một ngày cuối thu, Duy nằm xuống, mắt khép lại dưới bóng nắng vàng nhẹ. Bàn tay vẫn ôm lấy chiếc khăn máu năm nào, môi mấp máy một tên quen thuộc.
Người làng kể, hôm đó gió thổi mạnh lạ kỳ. Có bóng hai chàng trai dắt tay nhau đi qua bờ tre, cười như nắng tháng ba năm ấy.