Thai nhi
Tác giả: Bình An
Trùng sinh;Xuyên không
NHẬP THẾ CHUYỆN THUỞ THỜI
*
5) Cách đường cái quan đôi dặm có làng nhỏ chuyên nghề vót tre chẻ nứa. Quanh làng có mấy bụi tre to, mỗi nhà vài công ruộng, những lúc ngơi tay việc đồng áng thì dân làng lại tụ tập nhau kéo tre về đan lát thành nhiều món rồi đem đổi bạc với lái buôn.
Nhà cao cửa lớn thì không thấy, nhưng trâu mộng bò nằm mé ụ rơm thì coi như làng trên xóm dưới ai cũng có đi, thế là tốt rồi, ổn rồi, an yên bình dị rồi.
Trai gái đến tuổi trong làng thì ai cũng đã có đôi có cặp, khác họ gả nhà bên, cùng họ gả sang làng khác rồi giỗ quẩy rủ nhau về, con nít chạy rong không ai mắng, chiều chiều khói bếp tỏa như mây, được dịp đình chạp hội hè thì ai làm lớn cũng có cái áo the sạch sẽ mới mẻ để trưng ra với người. Có nề có nếp, có cá có cơm, có khói hương để truyền đời.
Chỉ là có cô kia sống lủi thủi với mẹ già, năm nay đã ngoài hai mươi mấy mà vẫn không ai thèm rước, ấy là bởi cô bẩm sinh đã mang tật ở chân, đi nhón nhón chứ không thể thẳng hàng. Nhất dáng nhì da, nhất nhì lùn mập còn thứ ba là thọt, để con gái mà có dáng đi như thế này thì đúng thật tới ma cũng chẳng thèm rước.
Đó không phải là tướng tốt để lấy về làm dâu, đàn ông thì còn được chứ làm đàn bà mà chân cẳng như vậy thì khó trách trai tráng trong làng không thèm để mắt đến, còn trai làng xa thì dĩ nhiên cũng không màng. Thế nên cô ấy vẫn cứ phải tới lui một mình, không người đưa rước rồi cũng không có nổi mối tình nào vắt vai để mà còn thở than luyến nhớ cho bằng chị bằng em.
Bọn nhỏ hay trêu rằng cô thọt, mỗi khi cô gánh thóc về nhà hay ra bãi chặt tre thì bọn chúng lại đuổi theo mà hát ghẹo, hát rằng:
Trời thương con cá có vây
Con công có lẳng con cua có càng
Còn cô sao cẳng lỡ làng
Khi nao mới mọc cho bằng con cua?
Hát chán chê thì bọn nhóc lại đọc bài vè, đọc rằng:
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè cô thọt
Bước đi nhọt nhọt
Vai chẳng ngang vai
Chân chẳng ngay người.
Cô mua đôi guốc
Một chiếc bỏ đi
Ấy vì cô thọt
Mỗi chiếc mà thôi.
Ai cũng có đôi
Chỉ mình cô thọt
Đơn côi một chiếc
Nhọt nhọt bước đi
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè cô thọt...
Nhưng dù có bị bọn nhỏ trêu đến mức nào thì cô thọt cũng không giận không hờn chi bọn chúng, bởi cô vốn bị trêu từ nhỏ nên đến nay tự đã quen rồi. Ví như những ai từng trêu cô năm xưa thì bây giờ cũng chính là những kẻ đã sinh ra bọn nhóc này. Thế nên cô lấy giận đổi thành vui, cùng chung đùa với bọn nhỏ, lâu lâu còn phát quà rồi dụ bọn nhỏ giúp kéo tre về nhà.
Nói vậy thôi, rằng giận có thể không nhưng buồn thì làm sao tránh khỏi. Mỗi khi đi ngang qua mà chợt nhìn vào nhà người ta rồi thấy cảnh chồng chẻ to vợ vuốt nhỏ con cái phụ ngót rá ra thành ràng, cười vui như trẩy hội, còn cô thì chỉ có một mình lầm lủi tự kéo tự khiêng, tự vót tự gọt tự đan tự vác đi mua bán cũng một mình...chỉ nhiêu đó thôi thì đã đủ để tủi thân nhiều lắm rồi.
Ấy vậy mà ông trời trêu ngươi phường ma quấy lối, đến cuối cùng thì cô thọt cũng đã có được một tấm chồng với người ta. Khác chăng rằng nồi nào thì úp vung nấy, nên chuyện có chồng của cô thọt cũng lại là một cái sự ngược ngạo nhạo đời.
Chuyện rằng hôm đó lương dân trong làng buổi sáng sớm ra đồng thì chợt bắt gặp một người lạ mặt bị ai đó đánh bất tỉnh đang nằm máu me bê bết nơi mé sông. Đợi đến khi dân làng hò nhau cứu tỉnh thì mới phát hiện ra rằng kẻ lạ mặt này vậy mà lại là một tên ngốc. Ngu ngu ngơ ngơ ai nói chi cũng gật ai bảo chi cũng cười, còn hỏi thì chỉ biết ú ớ ngây ngô đáp lại, đến tên họ hay gốc gác nơi sinh cũng chẳng nói được cho rõ ràng.
Rồi thì cũng tại bởi bà mối tham lam, nên khi lòng người còn đang thương cảm kẻ kiệt cùng lúc lùng bùng do rơi vào cảnh tai bay vạ gió thì trong bụng bà ta lại nghĩ ra đường mưu lợi ấm thân. Thế nên bà ta mới chen giữa đám đông mà nói rằng thứ trai vô dụng thì hãy cứ đem ghép cho thứ gái chẳng ai cần.
Xong thì bà ta vừa lôi vừa kéo gã khờ này đến trước cổng nhà của cô thọt, rồi bày trò miệng lưỡi đẩy đưa hòng kiếm chác được mấy xâu tiền, đợi nhét tiền vào lưng bụng xong rồi thì vứt thẳng cục nợ cho nhà người ta.
Chưa hết, lúc đủ rủng rỉnh rồi thì bà ta còn đi khắp nơi mà nói dặm thêm vào nào là bản thân làm nghề này mát tay lắm. Mối nào cũng cặp bến thuyền quyên, đôi nào cũng trâu bò luồn vô chung bãi, để dẫu có cụt đuôi sứt mẻ gì mà vào tay bà ta thì cũng sẽ tất thảy ra đôi ra cặp thôi.
Ví như cái mối mới hợp xong này là duyên trời đưa đẩy, trai ngơ gái ế, vẹn cả đôi đường, có đôi có cặp có tiền mừng, tắt đèn thì nhà ngói cũng như nhà tranh, nhấp chén rượu đào rồi tắt đèn cởi tuột luốt ra hết cả thì tức đã thành vợ thành chồng. Đợi sinh ra được đứa con đầu lòng thì bà ta lại ghé qua xin thêm xíu lộc gọi là của ít lòng nhiều, bởi cứ có tiếng khóc oe oe thì phải cảm ơn người năm xưa đưa tới đĩa cau trầu gán ghép.
Cái này gọi là nghiệp mối ăn ba lần, lần một đưa tới, lần hai nẩy lộc, còn lần ba là lúc con cái chúc thọ song thân thì bà mối cũng được ké tí ti tiền mừng. Để phải như vậy thì kẻ làm mối mới từ nghề mà thành nghiệp được, ám người ta từ lúc trẻ đến tận lúc già rồi có cái ăn đủ quanh năm suốt tháng khỏe phây phây.
Làm mai gánh nợ gác cu cầm chầu. Bởi chỉ mới biết làm mai thôi nên mới bị gọi là ngu, chứ học đủ để làm mối rồi thì sẽ khôn lắm đấy. Ví như ba cái còn lại mà đổi thành đòi thuê đấu gáy trực trà thì cũng tiền hốt đầy bao chứ có ngu gì đâu mà nói.
Còn cô thọt, do bởi lần đầu có chồng nên cô thương chồng nhiều lắm, ngày đút cho ăn, đêm quạt cho mát, đi chơi ở đâu cũng dắt chồng đi theo. Còn cẩn thận dặn đám nhỏ trong làng rằng ghẹo cô thọt thì được chứ đừng ai chọc chồng cô ngốc, bởi sẽ tội chồng của cô lắm.
Đồng vợ đồng chồng tát biển đông cũng cạn. Thương nhau kéo thẳng khúc sông, ghét nhau co lại dẫn chồng đi bơi, có vớt thì vớt cả đôi, vớt riêng em nhảy cùng thôi với chồng.
Đạo vợ chồng nó lạ lắm, ví như anh chồng ngốc đây thì cái gì cũng không biết, chỉ biết quay ngang mà nhìn thấy vợ thì tức là tốt thôi. Sáng đi chơi trưa đúng bữa chạy về, chiều ra cổng thấy bóng vợ quây quây, mặc ai nói ta cứ về ôm vợ, ngày qua ngày ấy có vợ có ta.
Ngốc, ấy có nghĩa rằng không biết gì, cũng có nghĩa rằng vẫn còn có thể học để biết, vậy nên mới có câu ba ngốc bằng một thằng què, chạy qua chạy lại cái bè cũng xong.
Ví như anh chồng ngốc đây sống lâu ngày bên vợ thì cũng đã học được cách phụ chút việc vặt cho vợ. Như vợ ra đồng chồng vác cuốc, em chặt tre anh kéo về, tôi chẻ ra mình lật ngửa, đợi đan lát xong rồi mình vác tất cả bước theo tôi. Bán được tiền vợ mua cho chồng cái khăn đóng, đợi khi đình làng hội vang tiếng trống thì mình đi trước bưng lễ còn tôi nép theo mình. Cũng là có đôi có cặp với người ta...
Rồi anh chồng này tuy ngốc nhưng cũng tự biết làm thêm được nhiều thứ lắm, ví như chuyện làm cho cái bụng của cô vợ thọt to ra. Chính là chuyện vợ chồng ăn ở với nhau rồi đơm hoa kết trái để cái bà mối xấu bụng kia lại sắp có thêm được ít tiền mừng.
Lúc bụng cô vợ thọt vừa to ngang thì anh chồng ngốc sợ nhiều ghê lắm, cứ đứng núp ngoài cửa mà hí mắt nhìn vô chứ không dám lại gần, chắc là sợ nó nổ bung ra như cà giòn nhai trong miệng. Nhưng qua được ít hôm thì anh chồng ngốc lại chuyển sang thích vừa nằm vừa xoa bụng vợ, xong thì lại thổi phù phù cho nó nở nhanh ra, thử xem trong đó chứa cái gì.
Rồi hàng xóm thấy vậy thì cũng mừng cho đôi trẻ, ai nấy cũng đều tự dặn con cái trong nhà rằng từ nay không được chọc ghẹo nhà đó nữa. Bởi chọc bằng vai phải lứa thì còn được, chứ một khi đã được làm cha làm mẹ của ai đó rồi thì không nên. Hỗn cho thì coi chừng mai mốt con cái họ lớn sẽ tự biết thay cha mẹ trả đòn.
Cho đến tháng cuối của thai kì, khi mọi chuyện tưởng chừng như đã ổn thỏa thì cô vợ bầu lại bắt đầu có chuyện, mà còn lại là nhiều chuyện cùng lúc xảy ra với không nguồn cơn nào hiểu rõ.
Một là thai nhi trong bụng kia lại tự nhiên thôi quẫy đạp, cứ nằm yên không động đậy cả ngày. Kêu thầy tới khám thì thầy nhăn mặt nhíu mày chẳng biết phải nói rõ ra làm sao, vậy nên chỉ đành hốt thêm vài thang thuốc bổ rồi nhắc uống dần chừng, xong thì đăm chiêu đi về giống như có gì áy náy lắm.
Hai là mẹ bầu lại bắt đầu khó ngủ, cả ngày hay đêm thì mặt mũi đều đờ đẫn mơ mơ màng màng mắt nhắm chập chờn chứ không thể nào khép đủ giấc ngủ sâu, ăn bao nhiêu cũng thấy không khỏe. Nằm cho nhiều cũng chỉ rước mỏi nhừ, cứ lăn qua lăn lại rồi hai hốc mắt tối đen như quét nhọ.
Còn ba thì chính là chuyện làm cho người vợ bầu cảm thấy bất an nhiều nhất, chính là chuyện đã nhiều đêm liên tiếp, khi cô ta vừa khắp mắt được một chút thì liền nhập mộng. Rồi tất cả mộng đều chung một cảnh vô cùng đáng sợ rằng trong bóng đêm có ma nữ áo trắng mặt tái xanh tóc tai nhìn như khổ quỷ mà ló đầu vào cửa sổ rồi kêu gào lên vừa thảm thiết vừa bi ai rằng: “Trả con cho ta, hãy trả con cho ta. Con ơi! Hãy về với mẹ đi con...”
Mỗi lần như vậy, theo bản năng của người mẹ thì cô thọt sẽ tung mình bật dậy trong mồ hôi ướt đẫm mà ôm chặt lấy bụng của mình, lắm lúc còn thở hổn hển mà hét lên to tới giật mình hàng xóm rằng: “Đừng cướp con tôi, xin đừng cướp con tôi. Chồng ơi! Cứu mẹ con em...”
Những lúc như vậy thì cả nhà đều sẽ thức dậy rồi thắp nến mà cùng trấn an cô vợ thọt. Nhưng cũng chỉ là chuyện cầm chừng thôi, khi mẹ bầu lại ngày càng hốc hác xanh xao, thần kinh bất ổn, sức sống trôi tuột như giọt nước nắm trong tay. Còn cái bào thai trong bụng thì vẫn cứ mãi im lìm, tới một cái đạp cho cha mẹ mừng cũng không có.
Xong thì để an tâm hơn thì người mẹ của cô thọt mới đi mượn về cái xe kéo, rồi vợ bầu ngồi trên, chồng xỏ vai kéo phía trước, còn mẹ vợ thì khăn gói theo sau, cùng nhau đi tới chỗ ngôi chùa nổi tiếng là linh thiêng ở gần làng để thắp hương xin cho Trời Phật ngó ngàng cùng phù hộ.
Lúc nghe chuyện thì sư ông của chùa, là người cũng vốn quen nghề bốc thuốc đã thử cầm tay bắt mạch cho cô vợ, rồi bắt xong thì sư ông cũng chung kiểu với các thầy thuốc khác mà trầm tư suy nghĩ để đến cuối thì chỉ im lặng thở ra, không biết phải nói thêm gì cho đúng.
Rồi cũng bởi mang cái gánh của kẻ đi tu, vừa dưỡng tâm vừa đem thân trợ tế giúp đời, nên sư ông mới kêu cả nhà cô thọt hãy tạm nghỉ nơi gian bên của chùa ít hôm, đợi sư ông viết phong thư rồi kêu chú tiểu chạy vội gửi đến tay một người vừa là bạn tâm giao vừa là kẻ tu hành có đạo hạnh cao hơn sư ông. Là người mà sư ông tin rằng nếu có thể đến đây thì cái khúc mắc này tự nhiên sẽ được gỡ.
Thư đi đến ngày thứ ba thì người lại, trong ba ngày đó không biết là do cảnh chùa thanh tịnh hay bởi cơm rau hợp miệng mà thần sắc của cô vợ trông có khá hơn một chút. Coi như cái quyết định đến đây nhờ cậy của một nhà ba người rưỡi bọn họ tạm là đúng đi.
Lúc khách còn chưa thấy bóng thì sư ông đang ngồi thiền bên trong lại chợt như hay tin mà sớm chạy ra cổng chùa đứng đón. Đợi lúc gặp rồi thì nói thêm mấy câu mà trong thư chưa viết rõ. Xong thì sư ông dẫn khách sang gian bên để thăm hỏi sức khỏe của người mẹ bầu đang tá túc.
Vị khách này được người đời biết đến như ông giáo mọn chuyên dạy chữ cho trẻ con của các làng, nổi tiếng vừa hiền hòa vừa tốt tính, nên cha mẹ nào gửi con đến thì cũng an tâm rằng con sẽ vừa hay chữ vừa hưởng lây được chút đức của thầy.
Để phải là người tu hành có đạo như sư ông thì mới có thể biết được nhiều hơn, rằng khách đây tuyệt không phải người thường, hay thậm chí không phải người phàm, khi chỉ lấy chữ nghĩa lập đạo mà lại có thể tiến sâu vào cõi tâm linh, nên cả đường chữ nghĩa lần đường đạo hạnh thì đều đã bước xa hơn sư ông rất nhiều.
Ông thầy vừa gặp thì cũng liền đưa tay bắt mạch người mẹ bầu, xong thì thở ra một hơi nhẹ nhõm mà mỉm cười với mọi ánh mắt vẫn luôn đang chăm chú hồi hộp ngó xem. Khiến dù ông thầy chưa nói ra một tiếng nào thì đã khiến tất cả như vừa cất được non nửa gánh lo trong lòng.
Tiếp thì ông thầy quay sang nhìn anh chồng ngốc đang đứng lơ ngơ ở đó, là nhìn bằng đôi mắt vừa sâu vừa sắc vừa trấn áp hồn người, khiến anh chồng tự dưng đứng đơ ra như tượng đá, để mặc cho ông thầy soi thấu hết tận đáy tâm can, tận nguồn cơn cả đầu óc lẫn tâm linh bản mạng.
Xong thì ông thầy kêu sư ông chuẩn bị một nơi yên tĩnh cách xa chùa cùng các nhà dân khác, lấy đó làm nơi cho đôi vợ chồng này trú tạm bên trong một đêm với ông thầy đứng canh cửa bên ngoài, còn sư ông cùng người mẹ vợ thì cứ ở lại chùa mà chờ tin, chuyện tốt xấu ra sao đến sớm mai sẽ rõ.
Màn đêm phủ xuống, đúng giấc nửa khuya, lúc trăng lu sao mờ khi đôi vợ chồng đang ôm nhau say ngủ bên trong thì hồn nữ kia lại đến. Chỉ là lần này khi nhìn thấy ông thầy đang ngồi nghiêm nơi trước sân thì hồn nữ đó lại tỏ ra sợ hãi mà đứng lấp ló phía xa chứ không dám tiến tới ló đầu vào cửa sổ để đòi con.
Ông thầy thấy hồn nữ đã hiện thì cười hiền lành mà vẫy tay kêu hồn nữ bay sát tới, xong thì lại dùng tay để mở ra một cõi mộng riêng, vẫy một cái nhập hồn nữ vào, vẫy cái thứ hai đưa hồn của cô vợ bầu vào chung, xong thì vẫy thêm cái nữa để đưa hồn anh chồng ngốc vào luôn trong đó.
Xong thì ông thầy nhắm mắt dưỡng thần, cố giữ cho cõi mộng kia cùng những gì đang diễn ra bên trong được yên ấm êm lành, tự hòa vào một giấc chung với nhau, lộ hết tâm tư rồi tự giải cho nhau chung thỏa chuyện của đời...
...Năm đó có thiếu nữ con nhà danh giá, qua mấy lần cùng người hầu dạo chợ thì đã đem lòng yêu một chàng trai làm nghề buôn bán vặt mồ côi từ nhỏ tự kiếm sống nuôi thân.
Là chuyện nam nữ gặp nhau, mượn ánh mắt tỏ tình lấy đôi câu bày tỏ, gặp gỡ dăm lần mới thân nhau rồi thực tâm thực dạ mới thành tình. Tuổi trẻ yêu nhau chính thường tình thế thái, chỉ một ánh mắt là đủ để tim non tự nguyện kết thành đôi.
Chàng khỏe mạnh, sáng dạ, tuy chữ nghĩa không nhiều nhưng cũng là người thông minh tháo vát, biết từ tay trắng hợp chút mồ hôi mà tự tạo ra được góc mưu sinh nhỏ cho mình. Giàu có chưa tới, dư dả còn phải đợi nhiều, nhưng nhìn quanh ngang lứa thì cũng chẳng mấy ai có thể giỏi giang được như chàng, ấy coi như cũng đáng mặt mày râu ở đời. Nhưng quan trọng là mặt mũi của chàng cũng dễ coi, miệng lưỡi có chút ngọt ngào, biết lấy lòng con gái nhà người ta, biết tặng quà rồi nói trơn câu hẹn thề ướt lệ, lâm ly, chung tình.
Nàng vốn nết na hiền thục, không biết mưu toan nhưng cũng tự biết tính toan cho chuyện của riêng mình, biết ý biết tứ, biết chuyện chung đôi nên hợp bởi chữ tình chữ nghĩa, biết chuyện sống với nhau cả đời nên là bởi lương duyên vun vầy theo nhân cách. Thế nên nhìn người thì xem tính nết, chọn người xem cốt cách, còn chọn tình thâm thì xem chuyện đạo nghĩa họ tự bước lấy bao nhiêu. Cũng là lý do ngay khi tuổi vừa cập kê thì lời đánh tiếng mai mối gửi tới nàng cũng đã nhiều, rồi tất thảy đều đổi thành lời uyển chuyển từ chối, chung quy nếu không phải thuận mắt thì cũng rằng chẳng hợp lòng.
Họ thương nhau, bắt đầu qua lời nói. Trai buôn bán nhưng giỏi tiếng thật thà còn gái kiêu sa thì luôn dành ra mến trọng thật tâm. Rồi quý mến nhau qua đôi lần gặp gỡ giữa chợ đông, thân thiết nhiều hơn khi hẹn nơi vườn cây im vắng, rồi tín cẩn trao nhau vật định tình đính ước, đợi tốt ngày thì nhờ mai mối dắt sang, mong cha mẹ của nàng thuận cho khối duyên tình đôi trẻ.
Người cha cả giận, phất tay bỏ đi bảo không màng. Người mẹ thương con gái rồi cũng do thấy thuận mắt với con rể, nên mới thường xuyên nhân lúc ngơi nghỉ mà nhắn nhủ kẻ phu quân khó tính kia đôi lời. Cứ vậy mà qua mấy tuần trăng thì lễ kết đôi nho nhỏ cũng đã diễn ra, đàng trai có bà mai đứng hộ, đàng gái có cha vợ ghé tới uống chén rượu rồi nhanh chóng quay lưng, coi như có nhận mà không có nhìn, uổng công nuôi dưỡng mười mấy năm, nay đành tâm vất lại con gái cho người dưng khác họ chẳng thiết đoái hoài.
Đôi vợ chồng trẻ tự dựng túp lều nhỏ ven sông, vợ ở nhà lo cơm bữa khâu vá, chồng gánh hàng ra chợ bán buôn, tự hẹn với nhau mỗi năm bốn vách sẽ trát thêm một lớp hồ, dần biến vườn nhỏ thành gia trang, tự dựng nên cơ sự để nở mặt với người đời. Rồi cũng là tự thân mình chứng cho cha vợ biết rằng lựa chọn đây vốn chẳng phải sai lầm.
Đến ngày kia người mẹ vợ đem đến túi tiền to, nói rằng đây coi như của hồi môn bà gom góp cả đời cho con gái, bảo hai vợ chồng cứ giữ lấy mà lo chuyện làm ăn, sớm sắm sửa khang trang rồi sinh cho ông bà đứa cháu, tới lúc đó thì mọi sự tự sẽ ổn thôi. Bởi giận lắm thì từ con chứ ai nỡ tâm đâu mà từ cháu, bà nói vậy thì chắc hai đứa cũng đã hiểu ý của lão già khó tính đang núp ở nhà kia rồi.
Rồi người vợ có thai, lúc bụng vừa hơi nhú ra thì người chồng quyết định thuê người chăm sóc còn bản thân thì gom vốn đi buôn một chuyến hàng, nhanh thì đôi tuần chậm thì một tháng. Dự định rằng nếu thành công thì từ nay có thể an tâm dư dả mà ở nhà túc trực chăm lo cho vợ.
Hôm tiễn chồng đi, người vợ đứng nơi bến vẫy tay tươi cười khi thuyền buôn chậm lướt, cố giấu đi giọt nước mắt đàn bà để chồng dọc đường an tâm lo đại sự, chân cứng đá mềm, gặp dữ hóa lành, mong Trời cao phù hộ cho phu quân mau trở về với thiếp, rồi một nhà an vui sống hạnh phúc tới cuối đời.
Chỉ là...lúc thuyền vừa khuất bến, khi người vợ quay chân trở về nhà thì chợt thấy khóm hoa dại vẫn luôn mọc tươi tốt trước sân lại thành ra héo úa, chẳng biết liệu rằng có phải có điềm gì đó hay không?
Một tháng trôi qua, trăng non kia đã tròn rồi đã khuyết, kỳ hẹn đã đến rồi mà sao chàng lại chẳng thấy đâu, không biết có phải tại bão táp mưa sa cho nước lớn trôi cuộn dòng, khiến tay kẻ lái thuyền nỡ đành trôi chậm trễ?
Ba tháng trôi qua, bụng thiếp nay đã vượt mặt rồi, chàng đang ở đâu, có biết rằng đứa con nhỏ của đôi ta cứ thường hay quấy giấc nửa đêm. Những lúc như vậy thiếp thường xoa bụng dỗ con rồi nhìn xa xăm về hướng bến sông, xem thử có thuyền nào cập lại lúc nửa đêm, để chàng bước lên rồi chạy về đây với thiếp, rạng rỡ như câu hứa của chàng vẫn luôn còn đây khắc ghi trong tim thiếp...
Hai tháng nữa trôi qua, thai kỳ nay đã vào tháng cuối, để bụng càng to thì gương mặt thiếp càng khắc khổ gầy gò, tay chân chạm vào thấy xương, còn lòng dạ thì như người đã chết. Thiếp cố húp thêm chén cháo vì con, để ăn thêm một miếng thì sầu lại to thêm một khối, khi tự lòng thiếp không biết phải chọn cái đáp án nào là đủ thỏa cho hai mẹ con cơ nhỡ cút côi đây.
Rằng chàng là kẻ bạc bẽo, nên đợi lúc đã có đủ tiền tài rồi thì phụ bạc tình chung mà bỏ thiếp để đi theo một ả đàn bà xa lạ thơm nức phấn son cùng điêu ngoa nào đó?
Hay là chàng dọc đường đã gặp phải chuyện chẳng may, cũng bởi vận thân tiền tài mà rước tới lòng tham lẫn ác gian của lũ hổ hùm, rồi chín chết một sống, bận giữ mạng mà chẳng thể về liền đây với thiếp?
Rồi lỡ như...rằng chàng thật chẳng thể về nữa thì sao? Vậy thì hai mẹ con thiếp phải sống tiếp sao đây? Hở chàng?
Tâm động thì thai động, trong đêm thâu người vợ một mình trở dạ, rồi chuyện gì đến cũng đến, rằng bởi khó sinh mà hai mẹ con đã cùng nhau qua đời, chết trong đau đớn và nước mắt, chưa thấy mặt nhau, chưa ló diện trên cõi đời...
Hồn mang khổ hận, thác xuống không tan, để lúc thần trí theo cực hạn nỗi niềm hợp lại thì cũng là lúc hồn nữ ngày trú ẩn đêm dáo dác theo linh tính đi tìm chồng, để biết rằng tại sao, để tự trả lời được câu hỏi rằng tại sao, là một đáp án cho đứa con số khổ đã chết khi chưa chào đời và cho chính mình. Rằng tại sao phu quân lại thành ra như vậy?
Để rồi cho đến khi tìm được thì hồn nữ lại thấy người chồng từng kết tóc se duyên thề chung chăn gối ân ái suốt đời của mình nay lại nằm bên hầu cận yêu thương một người đàn bà khác, với một đứa con khác đang chờ được sinh ra trong bụng của ả.
Là chàng vì ả đó mà bỏ em? Vì đứa nhỏ đó mà bỏ rơi đứa con tội nghiệp của đôi mình? Chàng nỡ sao? Nhà ngươi độc ác đến vậy sao?
Thế nên những chuyện tiếp theo mà hồn nữ đó làm ra thì cũng chỉ là chuyện thường tình thế thôi, không vì nỗi oán hận không cách nào tiêu tán của một người đàn bà bị khinh khi phụ bạc thì cũng là theo bản năng làm mẹ mà muốn đòi lại một chút công đạo cho đứa con số khổ của mình.
Có gì là sai đâu? Rồi thử hỏi nếu phán đó là sai thì trên đời này có ai mà có thể làm được đúng hơn đây? Là ai có thể chứ? Với từng đó những uất hận khổ đau...
*
Ba hồn chung một mộng, tự tương thông, tự thấu hiểu những cảnh đời đã diễn ra trong nhau, rồi lặng im chẳng biết phải nói gì.
Hồn người chồng khi thoát khỏi những trói buộc của phần đầu óc bị tổn thương, khi ký ức hạnh phúc cùng nỗi đau mất vợ lẫn con ập đến, cộng với việc chia sẻ nỗi đau mà người vợ thọt cùng thai nhi trong bụng đang còn sống ngay lúc này phải chịu. Chẳng biết trách ai, chỉ biết trách bản thân vào ngày hôm đó khi bọc theo tiền tài trong thân, lại quá hớ hênh khiến cho lũ cướp kia rình rập rồi chặn đánh đến mức trở thành kẻ dại khờ chẳng còn chi ký ức. Bất lực đến vô cùng...
Làm chồng mà lại để vợ phải sống trong cô đơn rồi chết chìm cơn đau đớn, làm cha mà lại chẳng thể đón con mình thấy được ánh sáng lúc chào đời. Rồi làm đàn ông mà tại sao lại vô dụng đến thế, khi lúc này chỉ biết đứng trơ ra chết lặng chứ chẳng thể nói thêm được gì.
Vậy nên anh ta đành quỳ xuống ôm chân, mong hồn người vợ đã phải chịu tổn thương cùng khổ đau quá lớn kia hãy cứ trút hết oán hận lên mình. Để dẫu có phải bỏ xác rồi bay theo mà đời đời trả nợ thì cũng là chuyện đúng phải làm, chứ không thể chọn vui bên tình mới mà vùi đi duyên cũ được, khi mọi chuyện vẫn còn đang mới như hôm qua, vẫn còn đây những nức nở bồi hồi.
Người vợ thọt nhìn chồng, vừa thương vừa giận, vừa hận vừa buồn. Thương cho nỗi đau vừa đổ sầm xuống đầu chồng, giận cho kẻ làm đàn ông mà sao lại gây ra cảnh trái ngang nhiều đến thế cho chính vợ con của mình, buồn bực bởi ông Trời sao lại tẩy trắng tội tình rồi vứt tới thân cô một mối tình chung lỡ làng đen bạc khi vừa là tình đầu ngay ngắn vừa là kẻ đến sau đoạt lấy.
Còn hận, là bởi chẳng biết tiếp theo đây phải làm như thế nào, mất chồng thì không thể bởi chẳng người đàn bà nào lại muốn chịu cảnh sinh con ra nhưng chẳng thấy được mặt cha, mất con thì lại càng không thể nào bởi cô thà chết thay để giữ lại mạng cho con.
Còn là đàn bà khi đang đưa mắt nhìn nhau, tận sâu cô chỉ toàn cảm thông cho hồn nữ bơ vơ kia, kẻ từng chung chăn gối với chồng mình, để rồi cô ấy phải mất tất cả những gì mà cô đây đang có. Đàn bà hiểu cho nhau, trông người thấy ta, đau đến tự cắt đứt lòng mình, chỉ thấy thương thôi chứ không biết phải làm sao hơn nữa.
Nhưng đau đớn nhất thì chính là hồn nữ bơ vơ đã tự trốn tránh luân hồi cắt đứt đường đầu thai tận triệt luôn cơ hội mà cõi hồn ban tặng để rồi ôm lấy nỗi đau mất con để đi tìm chồng. Rồi được gì đây? Thử hỏi rằng để được cái gì đây hở người?
Thà là có kẻ sai, để tình thành oán hận, vứt hết thiện lương đưa hồn nữ hóa thành đại ma đầu mà kéo tất cả cùng chung chết, viết thêm một chương nữa cho chuyện khổ đau tình oán phụ tại nhân gian, đập cho tan tành rồi bất hối vĩnh siêu sanh. Bởi người phụ ta thì đừng trách ta ác hóa để hại người, lấy tất cả biến thành thuốc độc để chết chung trong tiếng cười man rợ ẩn bi ai sầu khổ không cam.
Nhưng mà...chàng ấy đâu có sai, bởi ngay lúc này thì chàng chính là kẻ còn sống đang phải chịu nhiều đau khổ nhất quỳ ngay dưới chân ta đây mà. Ta mất chồng mất con thì chàng cũng mất con mất vợ, một đổi một hai đổi hai chứ đâu có ít ỏi hay nhiều nhặn gì hơn ta? Hay thậm chí là ta đã chết để nỗi đau kia là từng kiếp, còn chàng thì vẫn đang sống đây để trọn kiếp vẫn nguyên đó khổ vương mang, một vết thương không thể nào xóa sạch trong ký ức, càng không thể phai mờ.
Ôi ta đã làm gì thế này? Khi lại muốn cướp đi đứa con còn lại của chàng, cướp đi đứa trẻ vô tội của một người đàn bà vô tội, đem nỗi đau ta từng chịu trút lên đầu người khác khi chẳng chút ít lợi gì. Bởi lỡ đứa nhỏ trong bụng đó thật chết đi rồi thì con của ta cũng có sống lại được đâu, có mạng đâu mà đền, có thân đâu mà trả, rồi có hồn đâu mà đem nợ tính với cõi trần? Chỉ có khổ đau thôi, ba người cùng nhồi chung hận huyệt, chẳng tiếng khóc oe oe được chào đời.
Ôi Trời cao ơi! Ông đã làm gì tôi thế này? Tại sao ông lại nỡ để tôi thành ra như thế này? Con ơi! Mẹ biết phải tìm đâu? Mẹ biết phải làm sao? Hỡi con ơi! Đứa con tội nghiệp của mẹ ơi, đứa con chưa một tiếng khóc chào đời của mẹ...
Hồn nữ bơ vơ quỵ xuống, ôm mặt mà gào than, chẳng biết trách ai, chỉ biết tự trách mình.
Hồn cô thọt quỳ theo, tay hất chồng ra để ôm rồi khóc chung với người chị em mệnh khổ đến mức không thể nói nên lời. Cũng chẳng biết làm sao nên đành đổ cho Trời cao tất cả, cũng bởi tại ông đã gây ra nỗi cảnh này.
Còn người chồng thì vẫn chết lặng mà dập đầu lạy hai người vợ chung thân, cùng yêu, cùng khổ, cùng mệnh bạc đến trắng rét tận lòng.
Dây tình khó giải, vạn mối đan xen, rối hơn tơ vò, sầu hơn biển lớn, đã giao nhau không cách nào gỡ bỏ, luật Trời đánh xuống chẳng mảy may, cõi hồn quay mặt coi như không biết, bởi dính vô thì cũng chẳng biết phải tính tiếp như thế nào.
Rồi bỗng nhiên ngay lúc này, giọng của ông thầy chợt vang lên trong cõi mộng, nói rằng:
“Này hồn nữ đáng thương kia, có biết rằng tại sao ngươi tìm được chồng của mình hay không? Đó không phải chỉ bởi sợi dây nhân duyên chồng vợ dẫn lối, mà còn rằng bởi sợi dây ruột thịt tình thân dẫn đường, để cả hai hợp lại thì mới đủ cho ngươi trụ lại tại cõi trần đây đến tận hôm nay khắc này”.
“Là sao?” Ba người nghe xong thì ngơ ngác.
“Là rằng đứa con vẫn đang còn sống trong bụng người mẹ thọt kia, có tinh hoa mở mệnh của người chồng, có da thịt máu mủ nguồn cơn sự sống do mẹ thọt ban cho. Còn phần hồn thì chính là đến từ đứa con của ngươi, chưa từng mất đi, chưa từng tan biến, vẫn còn nguyên trong thế này để đầu thai chuyển kiếp vào bụng kia. Là một mệnh, nhưng lại là con chung của cả ba người, đủ cả thân – thần – hồn. Không thể chia ra, không thể tách rời.”
Khi giọng của ông thầy tán đi thì cũng là lúc nữ hồn kia òa khóc, chỉ là lần này thì hạnh phúc nhiều hơn hẳn khổ đau, cùng rạng rỡ đưa nhẹ nhõm thắp sáng trên mặt người. Hồn nữ sờ nhẹ nơi bụng của người chị em chung chồng, ấm áp dịu dàng như cất tiếng hát ru rằng:
“Đổi bụng sinh ra, thì con vẫn là con của mẹ. Có mẹ có cha, có cuộc đời mẹ đây hằng mong muốn mở cho con. Ầu ơ con nhé, sống trọn kiếp nơi đời đầy. Nửa đêm ngắm sao, có một lời nhắn mẹ gửi trọn cho con. Thương nhất trên đời, không gì hơn được nữa. Ầu ơ...”
Hồn nữ nói xong thì bất chợt tâm linh trở về nguyên khôi bản mệnh, trong suốt ngọc ngà, không còn khổ đau vây lấy nữa. Sau đó thì mỉm cười nhìn khối duyên phận đã từng kia, buông nhẹ rồi cũng bước nhẹ vào cổng từ bi mà ông thầy vừa mở, thoát khỏi trói buộc nhân gian để bước tiếp phận hồn. Cao xa, thanh thản, công bình...
Còn ông thầy thì làm thêm một việc nữa trước khi tiễn đôi hồn về lại nguyên thân rồi khép đi cõi mộng, chính là chủ tâm xóa đi đoạn ký ức mà họ vừa trải qua.
Bởi sống trong cõi phàm thì cứ dựa theo chuyện của cõi phàm để sống, đây là việc mà kẻ làm thầy phải làm cho ổn thỏa khi chăm lo chuyện tâm linh sinh mệnh của người phàm. Còn duyên tình mai sau nơi cõi khác có thành ra sao đó nữa thì là chuyện của một chữ tình, chuyện của cao xa số mệnh, chứ không phải là chuyện mà ông thầy đây có thể quản khuyên hay can thiệp.
Mộng một đêm, tự xóa nợ một đời, tự những kẻ buộc chuông chung tay gỡ rồi ai nấy cũng có được thứ đúng với mình. Không ai trách ai, không ai ôm oán hận vô mình, có chăng đã đổ hết cho Trời thì Trời ráng lặng thinh mà chịu.
Còn ông thầy khi gà gáy xong hồi cuối dẫn nắng sớm vừa lên thì mỉm cười trở về lớp học nhỏ, tránh việc sớm mai bọn trẻ tới lớp mà không thấy thầy ngồi sẵn đó thì lại bày ra lắm trò nhiễu sự không hay, lỡ dỡ học hành rồi kiếm thêm nhiều quậy phá.
Lúc nắng lên đủ vừa nhắc đôi vợ chồng tỉnh dậy, họ nhìn nhau, chẳng biết chẳng nhớ nổi chuyện gì, chỉ biết rằng trong lòng chỉ đang toàn thanh thản lẫn yêu thương...
Mấy tuần sau, cô vợ thọt bình yên sinh ra được một đứa con khỏe mạnh hồng hào, ai nhìn vào cũng thấy thích thấy yêu, còn vui nhất thì chính là bà mối mà cũng là bà đỡ khi đã kiếm thêm được tới cả nắm tiền mừng, miệng vừa đếm tiền vừa cười đến không sao khép lại được.
Rồi còn thêm một chuyện vui nữa, chính là anh chồng kia tuy ký ức chưa về nhưng trí khôn thì đã thắp, đã bắt đầu biết lo toan mọi bề chăm sóc tốt cho cả vợ lẫn con, đã vậy còn sáng thêm đường buôn bán khi biết gom rổ rá tre đan của cả làng hợp lại rồi chêm giá kiếm thêm chút tiền nơi chợ xa. Cứ vậy mà nhà dần no đủ thêm nhiều, giúp cô vợ thọt cùng mẹ già không còn phải khổ cực nhiều nữa, cả nhà hạnh phúc bên nhau, chăn ấm cỗ đầy.
Còn muốn nói thêm gì thì cứ mượn tạm lời hàng xóm, rằng không biết tại sao mà anh chồng kia khi hết ngốc thì lại cũng vẫn cứ khác với người ta. Khi có thể thương con bằng hai, rồi thương vợ bằng mười...