Tiệm sửa đồng hồ của tôi nằm lọt thỏm giữa hai vách tường lở lói, rộng vừa đủ kê cái bàn gỗ tạp và chiếc ghế đẩu. Mùi dầu máy hăng hắc quyện với mùi ẩm mốc của con ngõ nhỏ tạo thành thứ không khí đặc quánh, khó thở. Tôi quen rồi. Cả đời cúi mặt vào những bánh răng li ti, tôi thấy thời gian trôi qua kẽ tay mình, lạnh lẽo và vô tình.
Chị đến tiệm tôi vào những chiều muộn, khi gánh sen ế đã bắt đầu rũ cánh. Chị hơn tôi vài tuổi, da ngăm đen, đôi mắt trũng sâu chứa đựng cả một vũng tối tăm của phận đàn bà đơn độc. Chồng chị đi tù. Nghe đâu tội ngộ sát trong một cơn say. Chị ở vậy nuôi đứa con gái bị liệt nửa người.
"Cái kim phút nó lại kẹt rồi chú ạ".
Chị nói, đặt chiếc đồng hồ cũ mèm lên mặt bàn. Đó là kỷ vật duy nhất gã chồng vũ phu để lại trước khi tra tay vào còng số tám. Mặt kính nứt chân chim, dây da sờn rách bốc mùi mồ hôi chua loét.
Tôi cầm lên, soi kính lúp. Bánh răng mòn vẹt. Cỗ máy rệu rã như chính cuộc đời chị.
"Vứt đi thôi. Sửa tốn hơn mua mới". – Tôi cộc lốc.
"Cố giúp chị. Nó là cái vía để thằng chồng chị về nó không đánh".
Chị cười. Nụ cười méo xệch, nhợt nhạt như cánh sen cuối mùa. Chị sợ chồng hay chị còn thương? Đàn bà lạ thật. Sự tàn nhẫn của đàn ông đôi khi lại là cái cớ để họ bám víu vào, để thấy mình còn có nơi mà chịu đựng, mà hy sinh.
Tôi tháo tung cỗ máy. Tỉ mẩn lau từng chút rỉ sét. Chị ngồi bó gối ở bậc thềm, nhìn mưa xiên chéo qua mái hiên thủng lỗ chỗ.
Hàng xóm đi qua, thấy chị ngồi đó thì bĩu môi: "Đồ đàn bà dại. Chồng đi tù không lo kiếm thằng khác mà nương tựa, cứ ôm cái xác nhà nát ấy làm gì". Họ chửi chị ngu. Nhưng hễ chị bán ế vài bó sen, họ lại xúm vào mua rẻ thối, vừa trả tiền vừa chép miệng thương hại giả tạo. Chị biết hết. Chị kệ.
Một lần, con chị lên cơn co giật lúc nửa đêm. Chị gõ cửa nhà tôi rầm rầm, tiếng kêu cứu lạc đi trong gió bão. Tôi vùng dậy, vớ cái áo mưa trùm lên người chị, rồi bế thốc con bé chạy ra trạm xá.
Đêm ấy mưa như trút. Nước ngập đến đầu gối. Chị bám chặt vào thắt lưng tôi, hơi thở nóng hổi phả vào lưng áo ướt sũng.
Tại trạm xá, nhìn con bé thiêm thiếp ngủ, chị ngồi thụp xuống đất, hai tay ôm mặt. Vai chị rung lên bần bật nhưng không phát ra tiếng khóc. Chị đã khóc cạn nước mắt từ lâu rồi.
"Cảm ơn chú. Không có chú, chắc mẹ con chị chết".
"Chết thế nào được. Người khổ sống dai lắm". – Tôi đáp, lảng tránh ánh mắt ầng ậng nước của chị.
Từ hôm đó, chị hay mang cho tôi bát chè sen, khi thì đĩa xôi. Tôi ăn, không khen ngon cũng chẳng chê dở. Chỉ thấy trong vị ngọt của đường phèn có lẫn vị chát của những nhọc nhằn chị gánh trên vai.
Bố tôi bảo: "Mày ưng con đấy hả? Nó có chồng rồi, lại đèo bòng đứa con tật nguyền. Dây vào chỉ có khổ".
Tôi im lặng. Bố tôi nói đúng. Nhưng cái lý trí tỉnh táo ấy không ngăn được nhịp tim tôi lỗi nhịp mỗi khi thấy bóng chị liêu xiêu gánh hàng về ngang ngõ. Tôi thèm cái cảm giác được che chở cho chị, dù chỉ là sửa dùng một cái đồng hồ nát, hay dắt giùm cái xe đạp tuột xích.
Rồi chồng chị ra tù.
Gã về, người xăm trổ, nồng nặc mùi rượu. Đêm đêm, tiếng chửi rủa, tiếng đồ đạc vỡ loảng xoảng vọng sang nhà tôi. Tiếng chị van xin tắc nghẹn. Tôi nắm chặt cái tua-vít trong tay, định lao sang. Nhưng tôi là gì của chị? Hàng xóm? Người dưng? Tôi khựng lại. Sự hèn nhát cố hữu của một gã thợ quen sống thu mình khiến tôi chùn bước.
Sáng hôm sau, chị mang chiếc đồng hồ ra tiệm. Mặt kính vỡ nát tan tành. Máu rỉ ra từ ngón tay chị, thấm đỏ cả mặt bàn gỗ.
"Hắn đập rồi chú ạ. Hắn bảo chị đi với trai, lấy tiền nuôi trai".
Chị nói, giọng ráo hoảnh, vô hồn.
Tôi nhìn vết máu, lòng quặn thắt. Cơn giận dữ bùng lên, không phải với gã chồng, mà với chính sự cam chịu ngu ngốc của chị.
"Chị bỏ đi. Sống thế này có ngày nó giết".
"Bỏ đi đâu? Con bé cần bố. Hắn tuy cục súc nhưng vẫn là bố nó".
Tôi gạt phắt đống linh kiện xuống đất. Tiếng kim loại va vào nền gạch loảng xoảng chói tai.
"Bố cái gì loại ấy! Chị tỉnh lại đi! Hay chị thích bị hành hạ?".
Chị sững sờ nhìn tôi. Lần đầu tiên tôi to tiếng. Ánh mắt tôi nhìn chị trần trụi, đầy dục vọng chiếm hữu và cả sự phẫn nộ của một kẻ bất lực. Chị hiểu. Chị cúi gằm mặt, vội vã quay đi, để lại chiếc đồng hồ vỡ nát chỏng chơ trên bàn.
Bẵng đi một tuần chị không ra bán hàng. Ngõ vắng tanh. Tôi ngồi chong mắt nhìn ra đường, tay xoay xoay cái bánh răng vô định.
Đêm ấy, lửa cháy rực trời phía nhà chị.
Gã chồng say rượu hút thuốc ngủ quên, tàn thuốc bén vào đống lá sen khô. Tôi lao sang, đạp tung cửa. Khói mù mịt. Tôi lôi được chị và đứa bé ra ngoài. Gã chồng kẹt lại trong buồng trong, khi mái nhà sập xuống.
Đám tang gã chồng, chị không khóc. Chị ngồi trân trân nhìn di ảnh, gương mặt nhẹ bẫng đến lạ lùng. Người làng bảo chị bạc tình. Có người độc miệng bảo chị mưu sát chồng để theo trai. Chị điềm nhiên, như thể chị đã chết lâm sàng phần hồn từ lâu, giờ mới được sống lại.
Mấy tháng sau, chị dọn đi. Chị bảo về quê ngoại, ở đó có đầm sen, dễ sống hơn.
Trước khi đi, chị ghé tiệm tôi. Chị đặt lên bàn một gói nhỏ bọc trong lá sen già.
"Chị gửi chú tiền công sửa đồng hồ bao năm nay".
Tôi mở ra. Không phải tiền. Là chiếc đồng hồ cũ đã được thay mặt kính mới, dây da bóng loáng. Chị đã lén mang đi sửa ở đâu đó, hay tự tay chị lau chùi? Kim giây vẫn nhảy từng nhịp, tích tắc, tích tắc.
"Sao chị không mang theo?".
"Thứ gì hỏng thì nên bỏ. Nhưng có những thứ, người ta giữ lại không phải để dùng, mà để nhớ".
Chị nhìn tôi, cái nhìn sâu hun hút như muốn khắc ghi hình ảnh gã thợ sửa đồng hồ lầm lì vào tâm khảm. Rồi chị đi. Bóng chị và đứa con nhỏ khuất dần sau lũy tre làng.
Tôi ngồi lại với tiệm đồng hồ cũ kỹ. Ngoài trời mưa bắt đầu rơi. Tiếng mưa gõ vào mái tôn lộp độp, buồn thấu ruột. Tôi đeo chiếc đồng hồ lên tay. Nó không chạy đúng giờ. Lúc nhanh, lúc chậm, nhưng tiếng tích tắc của nó nghe như nhịp tim của một người đàn bà đang hồi sinh.
Tôi biết, tôi đã đánh mất chị, hoặc có lẽ, tôi chưa bao giờ có được chị. Nhưng trong cái ngõ nhỏ ẩm thấp này, mùi hương sen dìu dịu từ chiếc lá bọc đồng hồ vẫn còn vương lại, ám ảnh tôi, day dứt và nhức nhối như một vết thương chưa bao giờ lành miệng.