Hồ Tông Thốc sinh năm Giáp Tý (1324) tại làng Kẻ Cuồi (hay còn gọi là Trang Cuồi), thuộc ấp Quỳ Trạch, huyện Thổ Thành, thời Lê đổi là Đông Thành, nay là làng Tam Thọ, tỉnh Nghệ An.
Khoa Tân Tỵ (1341) đời vua Trần Hiến Tông, Hồ Tông Thốc vừa tròn 17 tuổi dự thi Đình và đậu Trạng nguyên với bài văn được lưu truyền khắp nước. Mặc dầu còn ít tuổi, nhưng sau đó ông được vua Trần Dụ Tông tin yêu cử giữ chức Trung Thư lệnh. Sách Kiến Văn tiểu lục của Bảng nhãn Lê Quý Đôn có ghi: “Sau khi ông đậu Trạng Nguyên đã được khắc tên vào bia đá và mặc dầu còn rất trẻ nhưng vua đã cho giữ chức Trung Thư lệnh. Ông cũng không sợ mình còn rất ít tuổi mà vâng lệnh vua nhận chức triều đình giao cho”.
Sau khi đỗ Trạng Nguyên, ông trở về lấy cô con gái quan thị lang tên là Thị Ấn làm vợ. Ông sinh hạ được mấy con, gia phả không nói rõ, chỉ ghi rằng ông sinh ra Hồ Thành, cũng kế tiếp đỗ Trạng nguyên. Về sau, cháu nội ông, tức con Hồ Thành là Hồ Đốn (có sách ghi Hồ Lại) cũng đỗ Trạng nguyên. Vì vậy, người đương thời vô cùng ca ngợi. Có người đề thơ tặng gia đình ông trong đó có những câu "Lũy thế phương danh chiêu Nhạn Tháp. Nhất gia thịnh sự ích Long Môn" và "Phụ Trạng nguyên, tử diệc Trạng nguyên" ý nói cha con nhiều đời đầu kế tiếp nhau đỗ Trạng nguyên cả.
Sau ba Trạng nguyên nói trên, những đời sau cũng xuất hiện liên tục rất nhiều nhà khoa bảng nổi tiếng. Không kể hàng trăm người đỗ Đại khoa hàng nghìn người đỗ thi hương. Tất cả những người thế hệ sau này của Hồ Tông Thốc đều đỗ tiến sĩ cập đệ, đều giỏi nổi tiếng và đều được phong tước Quận công trở lên và đều có tước tác để lại cho đời sau.
Hồ Tông Thốc cùng con cháu ông đã để lại cho họ Hồ nói riêng và đất Nghệ Tĩnh nói chung một tấm gương học vấn một niềm tự hào hiếm có cho đến ngày nay.