Trong chiếc hộp gỗ ấy, là câu chuyện thời trẻ của bà ngoại.
Chiếc hộp ấy chôn cùng bà tôi rồi.
Tôi nhớ có những lần bà vuốt ve nó, trên khóe miệng nở một nụ cười nhẹ nhàng yên bình.
“Bà ơi, cho cháu coi với”
Bà khẽ rụt tay lại. Bà mắc chứng suy giảm trí nhớ đã một năm nay. Đến mẹ tôi bà thi thoảng còn quên. Cơm vừa ăn xong đã cáu mù lên bảo con cháu mất dạy có bát cơm cũng chẳng bưng lên miệng bà được.
Tính tôi lại nóng, thi thoảng tôi nổi cáu với bà, nói bà làm gì mà vô lí thế! Nhưng mà xong thì cũng có được gì đâu, bà lại quên khuấy thôi.
À đấy, kì lạ là trước giờ người nhà lại chẳng nhắc gì đến ông. Tôi hỏi ai cũng bảo ông mất rồi, mất đã được mấy chục năm. Hỏi ông như thế nào thì mẹ chẳng nói, còn bố tất nhiên chẳng biết gì. Thế là tôi liền nghĩ mẹ keo kiệt. Liền đích thân đi hỏi vợ của ông luôn. Hí hửng đấm bóp lưng, rồi là trò chuyện suốt hai tiếng đồng hồ, cuối cùng tôi nhận ra mẹ tôi hẹp hòi y như bà tôi.
Thời gian trôi qua, tôi cũng quên khuấy cái tò mò ấy.
Đến mùa đông, khoảng thời gian bà tôi yếu nhất. Tôi biết bà sắp rời trần thế, liền dành thời gian ở bên bà thật nhiều.
Giây phút cuối cùng trên người bà còn hơi ấm, bà nhìn đôi mắt hoe đỏ của tôi, cười nhẹ nhàng.
Tôi không để ý nhiều, tôi chỉ thầm mừng bà không nhầm tôi với con bạn bà ghét hồi tiểu học là tôi thôi. Trước bà nhầm tôi với con Lan nhổ nước bọt vào mắt bà hồi lớp ba, liền đánh tôi túi bụi.
Tôi mỉm cười, nhưng nước mắt chảy ra.
“Bà à, con là Lan nè, bà dậy tát con mấy phát cũng được”
Nhưng bà không tỉnh lại, bà chỉ nằm đó, nhắm mắt ngủ ngon lành. Mặc cho tôi gào thét khóc nấc lên.
“…”
Gia đình tôi tổ chức tang bà đơn giản. Tôi nhớ ngày tôi mặc áo tang trắng, trời lạnh cắt da cắt thịt. Tôi đứng đón người viếng từ sáng đến đêm, nhưng đôi chân bình thường đi ba bước đã mỏi hôm nay lại chẳng khuỵu xuống tẹo nào.
Tôi nhớ bà, bình thường tôi hay cãi nhau với bà, vậy mà khi bà ngủ ngon trong chiếc hộp gỗ kia, tôi lại hối hận vô cùng, tại sao trước tôi lại hỗn hào như vậy được nhỉ?
Khách khứa về hết, tiếng kèn đám ma cũng tắt hẳn. Ngày mai đưa tang bà rồi, bố mẹ dặn tôi nghỉ ngơi tốt để mai xuống phần mộ dưới quê.
Tôi trở về phòng, trước đó lướt qua căn phòng bà hay ở. Tôi dừng chân, đi vào lục lọi đồ đạc.Tất cả đều còn y nguyên như lúc trước bà còn sống.
“Bà ơi, có phải bà sẽ đánh con không?”
Tôi khụy xuống khóc lớn, cảm nhận chút hơi ấm cuối cùng của người đã khuất. Tôi bám vào hộc tủ, không may làm chệch ngăn kéo. Chiếc hộp gỗ bên trong lộ ra.
Chiếc hộp chứa đựng niềm vui của bà đây sao. Tôi đã luôn tò mò về nó. Vậy mà chẳng lần nào bà cho tôi đụng cả.
Tôi khẽ mở nắp, bên trong là mấy tờ giấy nhám tách làm hai (Người xưa thiếu giấy viết, thường tách giấy viết làm hai cho tiết kiệm) và một tấm ảnh đen trắng.
“Người này… chẳng lẽ là”
Chữ “Hà” sau bức ảnh đập vào mắt tôi. Làm tôi nhớ đến tên người ông chẳng ai nhắc đến của tôi.
Tên ông là “Trần Văn Hà” ư?
Rõ ràng không phải, mẹ tôi họ Phạm cơ mà.
Tôi tiếp tục lục đống giấy tờ kia lên, đọc từng dòng chữ nắn nót trên ấy.
“Từ em Vỹ
Anh Hà, anh ở trên đó thế nào, tiết trời đã lạnh lẽo hơn rồi, anh nhớ mặc ấm nhé, dù em biết trên đó khó khăn, nhưng anh nhớ để ý sức khỏe.
Hôm nay em đã gặp anh Phạm Linh, anh ấy là người bạn anh đã giới thiệu. Chúng em nói nhiều về anh lắm. Anh ấy nói rằng khi xưa hai người học chung lớp vỡ lòng, anh còn bắn chun vào thầy giáo, sau đó bị bố đánh mông rất đau.
Trên căn cứ anh có tìm được mấy anh bạn vui tính không? Có thì kể chuyện trên căn cứ cho em nhé.
Em chờ tin anh”
Tôi đọc bức thư này, rõ ràng biết là thư tình. Nhưng ông Hà là ai? Người tình hồi trẻ của bà tôi à.
Tôi tò mò đọc một bức thư khác, rồi lại bức thư khác. Dần dần khóe mi không nhịn nổi mà đỏ lên, nước mắt rơi ướt nhẹp tờ giấy cũ kĩ cầm trên tay.
Hóa ra người bà tôi yêu hồi trẻ là ông Trần Hà. Hai người quen nhau vào một chiều bà đi làm ruộng. Thấy ông khôi ngô tuấn tú, người cao cao gầy gầy, lại có nụ cười đẹp, bà mê ông như điếu đổ.
Nhưng mà ông Hà tuấn tú thế, đời nào một mình bà tôi thích. Gái làng bà mê ông lắm, còn hay tặng thơ với hoa cho ông.
Bà viết trong nhật kí, bà nhìn mấy cái cô thắt hai bím bẽn lẽn tặng tập thơ cho ông Hà, chỉ muốn đem cuốc cuốc cho mấy cô ấy phát thôi.
Rồi bà cũng học làm thơ, thơ bà gieo ngang nghe chẳng lọt tẹo nào. Nhưng mà tuổi trẻ thôi thúc bà tặng cho ông Hà. Ai mà ngờ được ông Hà thích thơ bà viết muốn ngây ngất. Ông để ý bà từ trước, ông thích cái cô buộc tóc đuôi ngựa để hở cái cổ rám nắng. Ông mê cái cô người nhỏ nhắn chiều nào cũng mặc áo hoa đi cày ruộng.
Ông Hà từng bẽn lẽn sang tặng hoa cho bà, rồi ông chạy đi luôn, không đợi bà nói cảm ơn.
Bà tôi lại dũng cảm hơn bất cứ cô nàng nào. Bà thấy ông tặng hoa bèn thể hiện thiện chí tỏ tình luôn cho ông Hà sợ. Thế là hai người bắt đầu yêu nhau, trong sáng hồn nhiên ở cái tuổi chưa vào đôi mươi.
Gia đình hai bên biết chuyện, nhà ông Hà lại có tí tài sản, cụ tôi ưng ông Hà lắm. Ông Hà thấy thiện chí thì về kêu bố mẹ sang hỏi cưới. Gia đình bà tôi chưa kịp chờ tin vui thì ông Hà bị gọi đi vào Nam tập kích, bố mẹ ông sợ ông bất trắc, nên chưa đề đạt vội, kẻo biến bà tôi thành người góa chồng.
Ngày chia ly, ông tặng cho bà tôi chiếc khăn mùi soa thêu hình chim én, thời đấy đây là vật mơ ước của ngàn vạn cô gái. Bà tôi vẫn giữ cái khăn cũ kĩ, sờn rách theo thời gian ấy đến tận bây giờ.
Trông tập thư của bà tôi, lúc đầu có mấy lá thư ông Hà gửi về, ông hỏi han bà kĩ lắm, còn hẹn ngày về nữa.
Nhưng thư ông về sau thưa dần,rồi chấm dứt hẳn liên lạc.
Bấy giờ có người nói mới biết, ông đã có vợ con trong đấy, chỉ còn bà tôi đợi ông trở về thôi.
Bà tôi suy sụp, khóc ướt cả giấy viết thư. Bà quyết định quên ông đi, sống một cuộc đời mới. Bà nên duyên với ông tôi là ông Linh. Nhưng ông tôi mất sớm, trước khi mất ông đưa cho bà lá thư gửi từ miền Nam ra.
“Gửi Phạm Linh, chuyến này đi khó về, chăm sóc em hộ mình”
Bà không hề hay biết, gia đình ông Hà nghe lời con không tổ chức đưa ma gì ông, chỉ đem chôn đơn giản ở mảnh đất quê nhà. Trước khi mất, ông biết chiến tranh khốc liệt đã viết thư cho gia đình, để trong hộc tủ, dặn là không được nói cho bà.
Lời đồn ông có gia đình, chỉ là người ta thêm bớt vớ vẩn vào. Sự thật là ông đã hi sinh những năm bảy lăm, không thể trở về nữa.
Còn hóa ra, trước giờ bà không kể về ông, là vì bà sợ bà nhớ ông tôi, sợ nhớ ông Hà. Bà sợ sẽ khóc trước mặt con cháu.
Tôi đọc xong thư, khẽ đóng nắp hộp. Sáng hôm sau xuống phần mộ bà, tôi để hộp gỗ chôn cùng bà.
Bí mật tươi đẹp thời trẻ của bà, chiếc hộp gỗ bà luôn trân quý... và cả ông Hà mối tình đầu của bà... Tôi tin rằng, khi bà đem chúng đến thế giới bên kia, bà có thể cùng ông Hà, cùng ông ngoại đọc lại kí ức hồi trẻ, ôn lại những khoảnh khắc vui vẻ đã chìm vào trong quá khứ.
Tôi ngẩng đầu nhìn trời, trời đông u ám, giống như cái ngày ông Hà rời lên chiến khu, và không thể trở về nữa…
Chiến tranh, đã cướp đi mối tình đầu của bà tôi rồi…