Những câu chuyện về các cuộc tình “chớp nhoáng” trong chiến tranh không có gì mới, nó xuất hiện trong các tác phẩm văn học đã nhiều thập niên ở ta; hoặc lâu hơn nữa, trong các chuyện về chiến tranh vệ quốc của nước ngoài, ở Nga chẳng hạn, như là một phần của đời sống chiến tranh, và có những đặc thù của riêng nó. Nhưng trong thực tế, nó đa dạng hơn, nhiều trạng huống lạ lùng, ly kỳ hơn.
Một người lính gặp cô thanh niên xung phong trong một đêm ra mặt trận, một anh lính trẻ bị thương được một cô gái tình cờ cứu giúp bên bìa rừng, một cuộc gặp chớp nhoáng trên đường giao liên, trong căn hầm nọ, bên dòng suối kia… muôn vàn cảnh ngộ để có thể “nảy ý sinh tình”, trong những khoảnh khắc của chiến tranh mà sau đó, cả hai cùng cuốn vào cuộc chiến ác liệt và không biết số phận của mình ra sao. Thậm chí không cả biết tên người, quê quán của nhau. Dù trong tình huống nào, từ tình yêu thương hay những thỏa mãn khát vọng khoảnh khắc… thì đó cũng là những câu chuyện rất con người, cần một sự cảm thông, một cái nhìn nhân hậu, nhân văn.
Có nhiều người trong số đó may mắn, và cả “dũng cảm” nữa, sau chiến tranh được nhận lại những đứa con từ mối tình thời chiến ấy, như nhà văn Dương Hướng ở Quảng Ninh, thời kỳ ông là lính, trong một đêm ở mặt trận phía Nam chẳng hạn. Đó là cái kết có hậu. Nhưng không ít câu chuyện vẫn còn trong bí mật của những cảnh ngộ, những cuộc đời khác nhau, do vô vàn những lý do khác nhau,.
Bây giờ là câu chuyện tình thời chiến của một người tôi quen, một nghệ sĩ nhiếp ảnh ở cơ quan thông tấn nọ, được kể vài năm trước, trong quán bia hơi trên đường Hoàng Hoa Thám, Hà Nội. Anh là một trong nhiều cảnh ngộ “đặc thù” như thế.
Nghệ sĩ nhiếp ảnh kể, đó là giai đoạn chiến tranh phá hoại vô cùng ác liệt, từ khoảng 1966 - 1972. Miền Trung khi đó xác xơ, tiêu điều bởi bom đạn Mỹ cày xới ngày đêm. Ông là phóng viên ảnh, luôn phải có mặt ở những nơi đạn bom ác liệt, ghi lại những hình ảnh và sự kiện thời sự. Hành trang phóng viên mặt trận Khu 4 của ông lúc đó là chiếc xe đạp cà tàng, một chiếc ba lô bạc màu, một máy ảnh và một bình tông “Rượu nút lá chuối”, còn gọi là “Rượu quốc lủi”, luôn đeo lủng lẳng bên người. Đạp xe quèo quẹo suốt ngày đêm, từ Hà Nội vào tận Nghệ An, Hà Tĩnh, trong những trận máy bay địch oanh kích lúc đó đã là quả cảm lắm.
Mùa xuân năm ấy ông vào Vinh. Vừa đến phà Bến Thủy thì hàng đàn máy bay ào đến ném bom. Tiếng kẻng báo động dồn dập. Bất ngờ, một o thanh niên xung phong túm tay kéo ông vào căn hầm chữ A. “Đóng cửa hầm vô, muốn chết hay sao!” - cô gái quát. Sau tiếng quát kia là hơi thở hổn hển của cả hai người. Cả đêm đó, trong ánh chớp lóe của bom, của ánh pháo sáng, tiếng máy bay gầm gào, chỉ có hai người nằm “úp thìa” trong căn hầm chật chội. Mùi mồ hôi chua chua, mùi khói bom, mùi lửa cháy, mùi “đàn bà” lạ lùng và quyến rũ, tỏa ra từ cơ thể tròn căng, thây lẩy và nóng hổi của cô gái, cả đôi mắt huyền diệu sáng lên qua chớp lửa thì… “ai mà cưỡng được”.
Câu chuyện tình một đêm của ông, cũng tưởng chìm vào dĩ vãng, như hàng ngàn câu chuyện cùng cảnh ngộ của các chàng trai, các cô gái mặt trận khác. Nhưng vào một ngày, chừng hơn hai mươi năm trước, tức là sau cái đêm kỳ diệu của chiến tranh ấy, cũng chừng hai mươi năm, trong một lần vào Vinh thăm lại một người bạn, trong chiến tranh anh là chỉ huy đơn vị thanh niên xung phong nọ, và lúc này đã là cán bộ có chức sắc khá to. Câu chuyện vòng vo, cuối cùng người bạn bỗng nhắc lại cái o thanh niên xung phong ở căn hầm chữ A ngày đó. Thì ra cô đã có một cậu con trai. Cậu con trai là chiến sĩ công an và đang là đối tượng kết nạp Đảng. Tuy nhiên, hồ sơ phải khai cả người bố “ngoài giá thú”, đó là điều đang bí. Nhìn nét mặt lo lắng của bạn, ông cảm thấy đằng sau chuyện này dường như có một bí mật khác. Lúc đó, người ta nhìn những chuyện tình “chớp nhoáng” và hậu quả của nó còn rất nặng nề, với những mặc định đầy mặc cảm một thời: “Quan hệ bất chính”, “hủ hóa”… Và tất nhiên, những quan chức đương nhiệm, còn đầy tham vọng lên cao thì làm sao dám công khai những chuyện tình “trót dại” của mình.
Thấy bạn âu lo trĩu nặng, Nhà nhiếp ảnh bèn bảo: “Nếu không phải con ông thì là con tôi. Tôi cũng ở trong căn hầm chữ A khi đó. Để tôi nhận con cho”. Người bạn ngạc nhiên. Nhưng dường như đó là giải pháp hay nhất và may mắn nhất. Lập tức nhà nhiếp ảnh lãng mạn và đa tình đã báo cáo cơ quan là ông có con riêng ở miền Trung, ông cần cơ quan chứng nhận thời gian người chiến sĩ công an trẻ ra đời là thời gian ông ở Khu 4, ở trận địa Bến Thủy.
Câu chuyện của ông vừa thật vừa không thật. Thật bởi ông thực có một đêm lạ lùng trong căn hầm chữ A bên bờ Bắc sông Lam ngày ấy. Lúc đó đàn ông ra mặt trận cả, có một người con trai, lại là con trai từ Khu 3, miệng “nói ngọt như nác đàng” (nói ngọt như nước đường) vào miền Trung, được coi là quý hiếm, khối em nghiêng ngả, thương thầm nhớ trộm. Nhưng không thật vì có cả ông thủ trưởng của o thanh niên xung phong nọ tham dự vào câu chuyện còn nhiều trắc ẩn này. Tôi hỏi ông: “Ngay cả khi không biết chắc đó là con mình hay không nhưng anh vẫn nhận con, vì sao?”. Ông cười: “Các cụ bảo, thêm con thêm của. Dù là con ai thì cũng rất đáng trân trọng và cảm thông, vì bố nó đã có mặt ở nơi ác liệt nhất của chiến tranh, giữa cái sống và cái chết, vì Tổ quốc, vì tình yêu”.
Không biết “cóp” thông tin từ đâu, nhà nhiếp ảnh còn hỷ hả viện dẫn, trong Thế chiến II, có rất nhiều “những đứa con thời chiến” ở Liên Xô ra đời. Và rất nhiều tài năng, các tỉ phú là những đứa trẻ được sinh ra từ các mối tình thời chiến “chớp nhoáng” trong cuộc vệ quốc vĩ đại ấy.
Tôi không tiện hỏi, vậy câu chuyện về đứa con và o thanh niên xung phong ở trận địa Bến Thủy vào mùa xuân năm ấy ông đã “báo cáo” chị nhà chưa, ông có là khổ nạn của bi kịch gia đình không, cậu con trai và người mẹ thanh niên xung phong ấy bây giờ ra sao, còn những bí mật gì trong câu chuyện tình này mà ông chưa kể? Nhưng có lẽ, câu hỏi ấy trở nên vô duyên khi ta biết rằng, ông đã dám chịu trách nhiệm, kể cả những lời thị phi, phiền toái có thể gặp trong công tác, cũng như trong đời sống vì dám nhận con và báo cáo cơ quan về việc này từ hơn hai mươi năm về trước, lúc cái nhìn chưa cởi mở như bây giờ. Mà ngay cả bây giờ, chuyện ấy cũng chưa thật cởi mở, đặc biệt là trong giới chức nhà nước.
Và, câu chuyện tình thời ấy của ông, trong rất nhiều những mối tình thời chiến làm tôi cảm động. Cảm động không phải vì hy vọng có nhiều tài năng, tỉ phú nước Việt trong những đứa con sinh ra ở hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh, mà ông có ý liên hệ từ Thế chiến II ở Liên Xô (ông bảo, nhớ láng máng trong một bài báo nước ngoài nào đấy). Cũng không phải vì sự dũng cảm dám chịu trách nhiệm của ông, dù việc đó là rất con người và đáng trân trọng. Chính ở đây là cái nhìn cảm thông và nhân bản về những đứa con, những người mẹ, những người bố, những người lính khát khao cuộc sống bình thường, nhưng đã phải có mặt ở nơi ác liệt của chiến tranh, nơi bản lĩnh được thử thách, nơi cái sống cái chết có thể tính bằng giây, bằng phút vì nghĩa vụ cao cả của Tổ quốc. Vì vậy, những đứa con, với tư cách là những con người, là quà tặng của tạo hóa ban cho tình yêu, danh dự, lòng quả cảm, sự hy sinh của bao tâm hồn trai trẻ trong những năm tháng cam go và đáng nhớ ấy!