[Truyện ngắn]số phận một tình yêu
Tác giả: TLinh
Tôi gặp anh ấy sau mấy năm thủ đô Hà Nội được giải phóng theo hiệp định Giơnevơ.Chúng tôi học cùng một lớp trong trường đại học. Tôi từ trường nữ sinh tên tuổi bậc nhất được tuyển vào. Anh ở lớp bổ túc văn hóa cấp tốc dành cho cán bộ kháng chiến và con em họ được gửi đến. Chúng tôi thực lòng yêu nhau vào giai đoạn đầu năm học thứ hai. Yêu mà chỉ đôi lần dám nói nhỏ với nhau lời "anh yêu em",“em cũng yêu anh ”. Ở chỗ vắng,cũng chỉ ngồi chạm nhẹ vào nhau và cầm bàn tay đã là táo tợn. Ngày xưa tình yêu đẹp thường bộc lộ đến thế thôi. Còn thì chúng tôi tìm qua ánh mắt nhiều hơn. Cặp mắt từ ngượng ngùng, lảng tránh, đến đắm say không muốn rời nhau. Rồi từ yêu nhau, chúng tôi sưu tầm được thật nhiều thơ ca tình yêu. Chính những sưu tầm ấy đã mở hướng cho tôi chọn viết thành công luận án tốt nghiệp đại học đạt mức xuất sắc và đưa tôi bước tiếp vào con đường nghiên cứu văn chương sau này.
Vì cùng nhóm học với anh, nên từ cách nhìn nhờ nhạt ban đầu, tôi đã sớm nhận ra con người thật trong anh. Anh thông minh và có tính cách rõ rệt. Tôi đã chủ động để thể hiện cảm tình với anh. Sự chủ động còn có ý để từ chối mọi tình cảm của những người con trai khác. Tôi rủ anh xem phim ngày chủ nhật. Đưa tới anh cuốn sách hay. Đôi lần tôi giúi vào túi sách anh gói kẹo hoặc phong bánh nhỏ. Đáp lại, anh chăm sóc sự học của tôi. nên từ học lực trung bình, tôi sớm vươn lên mức khá .
trước nghỉ hè năm đầu, tôi mời anh anh và mấy bạn cùng lớp đến nhà. Mẹ tôi có mặt trong buổi tiếp. họ ra về rồi, mẹ tôi hỏi:
-Hình như con có tình ý với một cậu trong đó ?
Tôi chỉ nhìn mẹ để tìm sự cảm thông thầm kín. Mẹ tôi bảo:
- Nếu có mẹ đâu cấm con. Nhắm dần đi , ra trường tính chuyện xây dựng là vừa.
Tôi mạnh bạo hỏi mẹ :
- thế theo mẹ con nên để mắt đến anh nào?
Mẹ tôi nói ngay:
- Cảm nhận ban đầu thì mẹ ưng cái cậu nhỏ người, có mái tóc hung hung, nói năng từ tốn ây tên là Trung phải không?
Tôi ôm lấy mẹ để tỏ sự biết ơn lòng cảm thông nhân từ. Và thầm coi những lời mẹ nói là điều dạy bảo con gái mình bước vào độ tuổi trưởng thành. Dẫu vậy, không vì thế mà tôi làm điều trái với nếp sống chặt chẽ thời bấy giờ. Tôi và anh chưa một lần ngồi ghế đá công viên; không lông bông, la hét hoặc tầm cầu chí nhau ; càng không nói năng tục tĩu... Mới cách nhau có bốn thập kỷ, song nếp sống, nhất là quan hệ nam nữ trước và nay khác nhau nhiều lắm.
Sang năm học thứ hai, tuy chúng tôi chính thức yêu nhau, nhưng cả năm anh chỉ qua nhà tôi đúng ba lần theo hẹn truớc. Lần thứ ba, anh qua thăm mẹ tôi ốm. Anh về rồi, mẹ tôi lại hỏi tôi:
- Hai đứa các con yêu nhau thật rồi ư?
- nhưng ý mẹ thế nào?
Mẹ không đụng đến điều tôi đặt ra. Bà liền hỏi những gì thuộc về anh ấy. Mặc dù mẹ tôi không một chút phản ứng, nhưng tôi hiểu bà không bằng lòng khi biết xuất xứ của anh. Đến lượt tôi nói với mẹ như sự phản công trở lại:“Anh ấy xuất thân từ nông thôn thì sao nào? Xưa nay thiếu gì những vĩ nhân, học giả xuất thân từ nông dân? Ngay cả ông nội còn cũng xuất thân từ nông dân, để đến cuối đời trở thành nhà tư sản thành thị kiếm chủ đồn điền ở quê. Mẹ lấy bố con tức là lấy người gốc nông dân đấy thôi. Và bố con luôn là niềm tự hào của mẹ. Mẹ từng nói thế với con...”
Mẹ tôi nằm im, cặp mắt lim dim nhìn rất lâu lên ảnh bố tôi treo trên tường. Ý chừng mẹ muốn nhắc tôi chớ quên nỗi đau thương đã sảy ra trong cái gia đình bé nhỏ này. Bố tôi chết trong cải cách ruộng đất, mẹ tôi thì bị giam cầm, cho dù ông bà còng nuôi giấu nhiều vị cách mạng tiền bối. Tuy được minh oan, sự kiện cũng lùi về dĩ vãng xa rồi, song hễ nghĩ lại, mẹ tôi không hề thanh thản.
Bớt chợt mẹ tôi nói, như một sự khẳng định:
- Dù con có thanh minh, bào chữa thế nào cho cậu nông dân ấy, thì mẹ vẫn. Ngay cả cậu ta xuất xứ là người Hà Nội thì việc gả chồng cho con mẹ vẫn phải tìm người môn đăng hộ đối cơ mà!
- Mẹ ạ, việc con được thi vào trường đại học là sự bù đắp của cách mạng cho gia đình mình đấy. Con cái các gia đình tư sản, địa chủ không có công với cách mạng thì không được vào đại học đâu... Hơn nữa anh ấy cũng chả có tội tình gì...
Mặc tôi tiếp tục ngỏ ý van xin, mẹ tôi không nói một lời.
Mấy ngày sau một ông bác họ nội tôi đến, tỏ ra rất phẫn nộ về tình yêu của chúng tôi. Rằng trai Hà Nội hết rồi ư “đem thân lấy đứa bán than -nó xuông biển lên ngàn mình phải theo?”... Tiếp đến là những người họ hàng phía mẹ tôi lên tiếng phản kháng. Ai cũng thắc mắc tại sao một cô gái xinh xắn, có học, con nhà khá giả đất Hà Nội lại yêu đứa con trai nhà quê? Lại đến lượt bà hàng xóm dẫn một chàng bác sĩ giới thiệu cho tôi. Lần thứ hai anh ta đến, chỉ có tôi ở nhà. Tôi bảo mình đã có người yêu và đề nghị anh đừng bao giờ xuất hiện ở nhà này nữa.
Những rắc rối ấy tôi đã nói hết với Trung vào lúc nghỉ trưa vào ngày lao động công ích xây dựng công viên. Anh ngồi bên tôi, thỉnh thoảng gật đầu đồng ý rằng: Em nói tiếp đi anh nghe đây! kể về những điều chẳng lành, nhưng tôi luôn bày tỏ sự thủy chung trước sau với anh. Chỉ thầm mong anh bình tâm chờ tôi thuyết phục mẹ.
- Nhưng thật khó đấy! anh chờ em được không?
Chúng tôi tự soi mình trong mắt nhau. Anh tỏ lòng tự tin:
- Là con trai, anh có gan đợi em dài dài...
- Đợi bao lâu?...Mấy tháng?... Mấy năm...
- Năm năm... Mười năm...
- Anh không chê em già chứ?
Tôi và anh cùng cười thành tiếng, làm tan biến đi cái không khí nghiêm trang lúc mới vào truyện. Cả khi nghê tôi thuật: “ Mẹ thề, còn mẹ thì không bao giờ chấp nhận cậu Trung là rể cái nhà này!”, anh vẫn giữ tươi nét mặt.
- Anh có giận em không?
- Anh rất thông cảm vì biết không dễ làm thay đổi nếp nghĩ cổ xưa của các cụ.
Rồi anh động viên tôi:
- Phần anh, anh đã yêu em và còn mãi mãi yêu!
Tôi muốn ngả vào lòng anh nhưng không dám, sợ xung quanh người ta nhìn vào. Đành chỉ cất lời sẻ sàng:
- Em cũng vậy!
Còn điều nữa, tuy tôi không nói với anh nhưng tôi vẫn hi vọng đến một ngày mẹ vì thương tôi mà nghĩ lại...
***
Cho dù tôi mang tiếng khó bảo, cũng không vì thế mẹ bớt tình thương với tôi. Những ngày mẹ ốm nặng, tôi liền kề ở bên. Bàn tay khô héo của mẹ thính vuốt tóc mái dài mượt, thật dày của tôi. tôi nhìn mặt mẹ nhăn nheo, teo tóp, song vẫn hình dung ấy là khuôn mặt trái xoan, cả cặp môi chúm chím như hoa hé nở ở thời còn gái của mẹ. Và tôi là hình chiếu của mẹ ngày xưa. Mẹ dặn tôi cặn kẽ việc nhà, việc họ phải chu đáo. Về tài sản, trừ phần đưa lên chùa - nơi vọng linh cha mẹ tôi nương tựa, còn lại mẹ trao cả cho tôi, không nghe bất cứ lời khuyên nào của người gần, người xa, nên phân chia thế nào. Vậy mà, cho đến khi trút hơi thở cuối cùng, mẹ không một lời đổi khác về quan niệm chọn rể gả chồng cho tôi.
Hôm đưa mẹ về nơi yên nghỉ vĩnh hằng, anh Trung kịp có mặt trong số đông bạn bè cùng lớp học. Sau khi ra trường, anh làm phóng viên một tờ báo trong quân đội, phải lưu động thường xuyên. Từ ngày máy bay Mỹ tăng cường đánh phá miền Bắc, anh càng đi nhiều hơn. Còn tôi công tác ở một viện nghiên cứu. Tuy thế, chúng tôi vẫn gần gũi nhau, thư từ cho nhau những lúc xa, gặp gỡ mỗi khi anh về Hà Nội. Dường như khoảng cách không gian và thời gian càng làm cho tình yêu của chúng tôi bền chặt hơn. Cả khi mẹ còn sống, lúc bà giận dữ nhất, chúng tôi vẫn tin tưởng ở tình yêu. Anh hay đùa :“ Rồi sẽ có lúc mẹ sung sướng trong cảnh cháu bà nội, tôi bà ngoại thôi em ạ!” Nhưng mẹ tôi đã không bao giờ hưởng cảnh hạnh phúc chúng tôi mong ước nữa.
Sau lễ trăm ngày mẹ, lần đầu tiên chúng tôi nói đến chuyện cưới hỏi. Anh bảo phải chờ hết tang mẹ , sẽ tổ chức cưới đơn giản nhưng trang trọng.
- Thế nào là đơn giản ?- tôi hỏi cốt để trêu anh.
- Là không khoa trương, phù hợp với tục lệ phổ biến nhất.
- Còn trang trọng?
- Là ... là không úi xùi không dưới mức đơn giản. Là ... là ...
Tôi cười kịp đưa cái kẹo sôcôla vào mồm anh:l
- Là ... là anh bí rồi! em cho anh nợ. Sẽ phải thi lại môn vấn đáp này.
Những chuyện vui vui tựa như thế, thỉnh thoảng diễn ra tại nhà tôi. Từ ngày sau mẹ tôi qua đời, dù còn phải giữ ý thì anh vẫn thăm non tôi nhiều hơn trước, giúp đỡ việc nghiên cứu của anh. Đương nhiên là chúng tôi luôn bàn định về một gia đình êm ấm trong tương lai. Sau đó chúng tôi cùng lao vào công việc của mình.
Rồi qua ngày giỗ đầu mẹ tôi. Lại đến giỗ hết thật nhanh.
chúng tôi quyết định chúng tôi quyết định tổ chức lễ cưới vào mùa thu. Mọi việc đều trót lọt cả. Họ hàng nội ngoại tôi cũng thôi xì xào. Đùng một cái, anh nhận quyết định đi Nam. Anh về Hà Nội đến thẳng nhà tôi để báo việc đột xuất này. Anh động viên tôi:
- Đột xuất hay không, đều là mệnh lệnh ra trận phải không em?
- Không phải đột xuất, thích hơn chứ anh. Chúng mình còn có thời gian ở liền nhau để mà trò chuyện. Hoặc là chúng mình có thể cưới nhau khi anh đi xa.
Anh ngồi im, vẻ suy ngẫm, rồi nói:
- Cho dù có thời gian thư thả, nghĩ cho cùng, chúng mình chẳng nên cưới trước làm gì.
- Vì sao cơ?
- Nhỡ ra anh...làm sao ...nỗi khổ trút hết xuống đầu em.
Cùng ngồi trên một chiếc ghế dài, tôi ôm chặt lấy anh, kêu lên một tiếng rõ to:
- Khô...ông!
Tối ấy, anh ở lại với tôi đến tận khuya. Chúng tôi nói với nhau đủ thứ chuyện. Anh nói nhiều hơn, có ý để lấp đi nỗi buồn anh đọc được trên nét mặt, khoé mắt và cử chỉ của tôi. Lại có lúc anh im lặng, vuốt mái tóc dài của tôi và thong thả đặt nhẹ nhàng từng cái hôn lên khắp mặt tôi. Chưa bao giờ tôi hưởng sự êm ái ngọt ngào đến thế, nói đúng hơn là chưa bao giờ tôi ngoan ngoãn giống như một đứa trẻ thả mình vào lòng anh như tối nay. Cặp mắt tôi lúc nhắm nghiền, lúc lại mở to nhìn anh đắm đuối.
- Anh à, vắng anh rồi em chẳng biết sống ra sao?
- Trước nay anh vẫn vắng nhà cơ mà !
- Trước vắng khác, này mai vắng khác... Anh có nhớ em không?
- Anh nhớ em nhiều lắm. Nhớ em như ông Nguyễn Bính tả trong thơ vậy:“ Trời có bữa sao quên mọc - Anh chả đêm nào chả nhớ em”.
Tuyệt vời anh nhỉ. Cái nhớ trong thi sĩ Nguyễn Bính sao cao rộng bao la, đáng yêu đến thế. Nó vượt cả quy luật vũ trụ !
- Thế nhớ anh, em làm gì?
- Em phải... phải... nhớ anh... nhiều nhiều hơn...
Anh cười. Nét cười trên môi, trên mặt anh hiền làm sao. Tôi hiểu, anh cười để gỡ bí cho câu trả lời của tôi.
- Và em phải làm việc nhiều hơn, cho không rỗi rãi để mà nghĩ đến nỗi buồn.
- Quên ban ngày để nhớ nhau trong ban đêm - ngày Bắc - đêm Nam - như thơ ông Tờ Hành viết ấy, phải không anh ?
Anh đứng dậy. Chuẩn bị về. Tôi. muốn anh ở lại. Anh lưỡng lự, rồi nói không nên.
Sáng mai anh phải nhập đoàn nhà báo để hành quân ngay buổi tối. Thế là anh đi xa. Rất xa. Cuộc chiến này liệu anh có ngày trở về? Liệu chúng tôi còn gặp nhau? Tôi bâng khuâng, hụt hẫng. Nước mắt tôi tuôn trào. Và bật lên tiếng khóc nức nở. Tôi ôm chầm lấy anh. Ở lại đi anh. Chỉ đêm nay thôi. Ngày mai anh đi xa lắm cơ mà. Em biết tìm anh nơi nào, hả anh?
Anh tìm lời an ủi, xoa dịu tôi vượt qua cơn sốt tình cảm. Tôi rỉ rả, giá chúng tôi là vợ chồng.Giá chúng tôi đã có một đứa con... Được thế, tôi có quyền sống trọn đêm nay bên anh. Được thế, anh đi xa, tôi đỡ trống vắng biết bao. Kết cục, anh vẫn nhẹ nhàng nói :
- Anh rớt muốn, song không nên em ạ !
Tôi chỉ còn biết tiễn anh bằng những nụ hôn tới tấp, cuồng nhiệt với hứa hẹn đợi chờ:
- Dù phải chờ anh năm năm, mười năm hay lâu hơn nữa, em vẫn chờ. Chúng ta đã yêu nhau và đợi chờ ngày cưới đến hơn bảy năm rồi, phải không anh?
Tiếp đó là những tháng năm tôi sống trong thấp thỏm, lo âu để chờ anh. Thật không ngờ là, tôi phải chờ anh không chỉ hết cuộc chiến tranh. Chín năm anh vào chiến trường, mấy năm đầu tôi có nhận được tin của anh. Sao bặt hẳn. Rất hoang, buồn nản, rồi lại phải tự tìm cách ăn ủi mình. Như hàng vạn, hàng vạn gia đình có người thân ra trận, họ phải vượt qua nỗi buồn nhớ lẫn khổ đau. sau ngày đất nước toàn thắng, năm 1975, rất nhiều gia đình được giải đáp con em họ, còn tôi thì không. Tôi phải tiếp tục nhờ cậy, để đơn tìm kiếm, để rồi thêm mười năm nữa, vào giữa 1985, mới được thông tin chính thức về anh. Anh bị thám báo địch bắt trên đường làm nhiệm vụ. Chúng đã sát hại anh sau khi không khai thác được gì hơn, ngoài điều anh là nhà báo.
Tôi được mời dự buổi lễ tưởng niệm muộn màng để nhận danh hiệu liệt sĩ cho anh. Lúc ấy tôi không khóc nhiều ngày đêm. Tôi chính thức đặt bát hương thờ anh. Cho dù trước pháp luật, anh chưa là chồng của tôi, sống đã bao năm rồi, tôi coi mình là vợ anh. Tính đến ngày nhận tin anh hy sinh, thế là tròn hai mươi sáu năm tôi yêu, tôi đợi anh; biết bao kỷ niệm về anh sẽ còn đi theo mãi cuộc đời tôi. Anh buớc vào từng trang sách, từng bài viết của tôi, Chỉ thế thôi, anh đủ làm thần tượng, xứng đáng làm thần tượng của tôi.
Vĩnh viễn anh đi xa rồi, tôi thật buồn, nhưng đủ nghị lực để đứng vũng trước sóng gió cuộc đời. Tôi đã từ chối lời tỏ tình của nhiều người đàn ông. Có cả cái tát dành cho kẻ sàm sở. Đã bước qua. Đã bước qua bao dư luận, đàm tiếu. Cũng có phút mở lòng mình trao những nụ hôn, mà kết cục kẻ ấy không xứng làm chồng. Tôi từng cầu xin vòng linh anh tha thứ cho tôi về những điều đó và xin anh chứng giám rằng, cả cuộc đời tôi đã thuộc về anh, mãi mãi là của anh, như định mệnh vậy!
Nay ngồi viết mối tình đầu này, tôi đã qua tuổi cầm sổ hưu. Tưởng thời gian và tuổi tác đã làm khô nước mắt, vậy mà nó cứ ứa ra. Nghỉ thương anh. Thương cả mình.
Giá như xưa kia mẹ tôi đừng quá nặng nề quan niệm “ môn đăng hộ đối”. Thì tôi và anh đã mên vợ nên chồng. Thì ít ra chúng tôi đã có với nhau một đứa con. Nhưng con không trách mẹ đâu, mẹ ơi ! Có chăng con chỉ trách một hệ tư tưởng cũ kỹ, đã trói buộc, đày ải bao nhiêu thế hệ người, trong đó có mẹ cùng là nạn nhân.
Giá như đất nước này không có bàn tay ngoại bang can thiệp, chắc không thể nổ cuộc chiến tàn khốc kéo dài, sẽ không mất mát hy sinh khiến hàng triệu gia đình phải gánh chịu.
Giá như... Giá như...
Giá như qua khỏi được những “ giá như” tôi ước, thì tình yêu đôi lứa chúng tôi không thể chết ! Thì... già này đâu chịu số phận hiu quạnh, cô đơn cả một kiếp người!