Công chúng thường tin rằng hầu hết những kẻ giết người đều xuất thân từ một gia đình tan vỡ hoặc suy tàn, nhưng bằng chứng từ nghiên cứu của chúng tôi cho thấy quan điểm này là không chính xác. Rất nhiều kẻ sát nhân sinh ra trong gia đình sung túc khá giả, hơn nửa số hung thủ sinh trưởng trong gia đình rất bình thường, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cũng rất hòa thuận.
Đương nhiên, sự bình thường của những gia đình đó đều là vẻ bề ngoài, trong đó luôn ẩn chứa những nhân tố không an toàn. Ví dụ theo điều tra của chúng tôi cho thấy người thân của hơn nửa số tội phạm đều có tiền sử bệnh thần kinh, khoảng một nửa tội phạm có cha mẹ từng phạm tội, gần như tuổi thơ của tất cả tội phạm đều biểu hiện những vấn đề về thần kinh, theo quá trình trưởng thành, những vấn đề tâm lý này sẽ phát triển thành cái mà bác sỹ tâm lý gọi là trạng thái bất thường.
Nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn từ lúc sinh ra cho đến 6 tuổi, người trưởng thành quan trọng nhất của chúng là cha mẹ, và trẻ em cũng sẽ học được năng lực yêu thương trong chính giai đoạn này. Nghiên cứu của chúng tôi đồng thời cũng cho thấy quan hệ của tội phạm và cha mẹ trong giai đoạn này rất thờ ơ, thậm chí bài xích lẫn nhau, giữa bọn họ thiếu đi sự quan tâm tình cảm. Những tội phạm này tuổi thơ rất ít được mẹ yêu thương, họ không cảm nhận được ấm áp về mặt tinh thần, bởi vì họ không thể học được cách yêu thương nhau như những người bình thường, cũng không thể thể hiện nhu cầu đối với tình yêu và quan tâm lẫn nhau. Nói đơn giản hơn, ngay từ nhỏ họ đã bị tước đoạt năng lực yêu thương, mà thứ năng lực này còn quan trọng gấp vạn lần tiền bạc, bởi vậy mà họ phải trả giá cho điều đó suốt đời, cũng khiến cả xã hội phải chịu đựng cái giá khốn khổ: họ không chỉ cướp đi tính mạng của những người bất hạnh, còn khiến bao người rơi vào nỗi sợ hãi.
Tuổi thơ của họ không chỉ chịu đựng vết thương về thể xác, còn luôn phải chịu áp lực về mặt tinh thần, người bình thường có thể hiểu được nỗi đau về thể xác, như bạo lực gia đình, nhưng nỗi đau trong tâm hồn lại càng đáng sợ. Trong cuộc sống thường ngày có lẽ chúng ta thường bắt gặp những bà mẹ trẻ bỏ con trong nôi rồi ngồi xem TV, đi ra ngoài làm việc của mình, những đứa trẻ lớn hơn một chút thì được bỏ vào xe tập đi, người mẹ cho chúng ăn xong thì đi làm. Trong giai đoạn tuổi thơ, TV trở thành bảo mẫu của những đứa trẻ, trong trạng thái như vậy làm sao có thể có được một tâm lý an toàn lành mạnh? Một tội phạm đã nói với tôi trong cuộc thẩm vấn, lúc nhỏ tối nào anh ta cũng bị nhốt trong căn phòng nhỏ, bố mẹ còn bắt anh ta không được làm ồn, vì bố mẹ muốn tận hưởng thế giới của hai người, điều này khiến anh ta từ nhỏ đã thấy mình như một kẻ dư thừa.
Lời nói cử chỉ của họ không một ai chú ý, cũng không ai quan tâm họ làm gì, cha mẹ không làm trọn chức trách, khiến những đứa trẻ đó không biết đâu là đúng đâu là sai, đến khi chúng lớn lên, nhưng cảm giác từ thời nhỏ vẫn tồn tại trong lòng, do đó không biết chuyện gì sẽ gây tổn hại đến người khác hoặc chuyện gì không nên làm. Trước khi đứa trẻ 5-6 tuổi, nhiệm vụ chủ yếu của cha mẹ là để chúng nhận thức được sự tồn tại của xã hội và cho chúng hòa nhập với xã hội, cho chúng biết rằng thế giới này không chỉ có chúng tồn tại, còn có sự tồn tại của nhiều người khác nữa. Giao tiếp với trẻ là rất qua trọng, nhưng trong trải nghiệm của những tội phạm sát nhân, cha mẹ và thầy cô của họ (đặc biệt là người mẹ) không làm tròn nghĩa vụ giạy dỗ bảo ban họ.
Quan hệ giữa gia đình và trẻ em có hòa hợp hay không là mấu chốt để sau này chúng có thể dung hòa được với xã hội hay không. Trong gia đình của các hung thủ, chúng ta chỉ có thể nhìn thấy những cha mẹ không xứng đáng với chức trách, nên từ nhỏ họ đã không làm tốt trong việc xử lý khi giao tiếp xã hội, cũng không có ai đặc biệt thân cận, sau khi trưởng thành cũng chỉ sống trong cô độc.
Mọi người đều biết không phải những đứa trẻ bất hạnh xuất thân từ gia đình như vậy đều sẽ trở thành hung thủ máu lạnh, vì quá trình trưởng thành còn có một giai đoạn thứ hai: thời thanh xuân. Nếu lúc này họ được cứu vớt kịp thời, sẽ không bước vào con đường phạm tội. Nhưng những hung thủ mà chúng tôi thẩm vấn lại không có được may mắn này, thời thanh xuân của bọn họ đều không nhận được sự cứu vớt kịp thời như vậy, khi sa đọa cũng không có bàn tay nào đưa ra kéo lên, do đó mà họ lỡ mất cơ hội cuối cùng của chính mình, cuối cùng bước vào con đường đời một đi không trở lại.
Những đứa trẻ nam chịu tổn thương sau thời thanh xuân sẽ nhận ra khả năng thích nghi xã hội và kỹ năng giao tiếp của mình ngày càng kém, cũng không thể có được mối quan hệ tốt đẹp với một người khác giới. Chúng tôi đã nói nội tâm của những tội phạm rất cô độc, nhưng không có nghĩa thời thanh xuân họ thể hiện là người hướng nội, dè dặt, đúng thực có tội phạm sẽ như vậy, nhưng có những người thời trung học rất hay nói, có một đám bạn con trai, nhưng họ làm vậy chỉ để che đi cảm giác cô độc bên trong của mình. Người trẻ mười mấy tuổi thường sẽ tham gia các buổi party vui vẻ, thậm chí còn có những hoạt động kiểu như thi hôn nhau, nhưng những tội phạm cô độc trong tương lai này chỉ biết dựa vào tưởng tưởng thỏa mãn chính mình, nhờ đó để thay vào sự giao tiếp qua lại của những người bình thường, thời gian càng lâu dần tâm lý càng ngặt nghèo, sau cùng giá trị quan của họ cũng ngày càng trở nên đi ngược xã hội.
Tìm tòi, mở rộng, duy trì quan hệ giao tiếp xã hội nên được nắm bắt ngay từ nhỏ, đến khi mười mấy tuổi họ sẽ càng khao khát mối quan hệ giao tiếp tốt đẹp, nhưng lúc này mới bắt đầu giáo dục thì đã quá muộn. Những hành vi khác thường từ lúc nhỏ không hoàn toàn sẽ biến chất thành tội phạm giết người, nhưng gặp phải cha mẹ say xỉn bạo lực, sau khi lớn lên rất có khả năng làm điều sai lẽ trái, nên tôi lần nữa nhấn mạnh nhân tố mấu chốt khiến một người đi vào con đường tội lỗi là tuổi thơ và hoàn cảnh sinh sống.
Nhân viên nghiên cứu tâm lý thường cho rằng ký ức bi thảm của tuổi thơ là nguồn gốc hành vi tàn nhẫn của các hung thủ, nhưng nghiên cứu của chúng tôi cho thấy kết luận này không chính xác hoàn toàn, mấu chốt thật sự là sự phát triển không ngừng của những nhận thức sai lệch, cũng tức là trạng thái phát triển thay đổi trong tưởng tượng của họ. Nhà tâm lý học gọi quá trình này là thời kỳ hình thành thế giới quan, tức là quá trình phát triển và chín muồi của tư tưởng, sẽ ảnh hưởng đến cách nhìn của một người đối với môi trường và sự vật. Người có tâm lý bất thường sau khi trải qua quá trình này sẽ hình thành khuynh hướng đi ngược xã hội, cho rằng cả thế giới đều chống lại mình, vì vậy mà không giao tiếp với người khác, đè nén mọi áp lực vào bên trong mình, cho đến khi nó bùng nổ.
Người mang tâm lý bất thường khi gặp phải trắc trở sẽ đổ hết mọi sai lầm lên người khác, dùng phương thức hoang tưởng để giải quyết vấn đề, hơn nữa rắc rối của họ lại ngày càng nhiều, ví dụ như sau khi mất đi người yêu rồi bị đuổi việc vì không tập trung làm việc, lúc thất nghiệp không có thu nhập và nhận được an ủi về mặt tình cảm, lại càng gặp nhiều vấn đề, do áp lực càng lúc càng lớn, sau cùng sẽ bị áp lực hủy hoại.
Hành vi của họ về cơ bản đều là tự mình hủy diệt và đi ngược xã hội, có những người sau khi bị bắt còn giảo biện làm như vậy không có gì là sai, nhưng trong tưởng tượng của họ không có được sự hài lòng, họ sẽ hết lần này đến lần khác ra tay, nếu không bị bắt, họ sẽ tưởng mình là siêu nhân không ai địch lại.
Nguồn: Epaper
Dịch: Khoa học tội phạm