Chúng tôi ngồi góc bàn đằng kia. Lão Tiểu Lạc viên đã đem bát đũa, thìa với tương ớt đến. Lão này vừa là chủ, vừa là tớ trong cái phòng ăn con con kê ba chiếc bàn nhỏ. Chim quay Tiểu Lạc viên cũng được tiếng. Chẳng biết nhà hàng vô tình hay cố ý để những cái bàn khập khểnh tạm bợ. Chắc là cố ý thôi. Các hàng quán này cứ chập chờn chưa biết lúc nào bị đóng cửa. Trễ nải, tàn tạ, người ta chỉ bày biện qua loa, cốt làm ra thế.
- Có ngay! Có ngay!
Lão Tiểu Lạc viên bước ra, bỗng im bặt, quay lại, nhìn quanh, rồi hỏi:
- Các ông có cái mùi...
Không ai bảo ai, mọi người chú mục vào Nguyên Hồng vừa đặt lên góc bàn mở gói giấy báo bọc thịt chó và lập cập nói:
- Nhắm cái này trước đã! Nhắm cái này đã! Thoạt trông cũng biết không phải là gói nguyên: Chắc trưa nay Nguyên Hồng đã đánh chén ngoài ấp còn thừa thì cầm đi nốt. Hổ lốn thịt luộc, lòng gan trộn với húng, riềng, cả đùm con con muối tiêu.
Lão Tiểu Lạc viên đã nhìn rõ gói thịt cầy. Lão cau có hầy một tiếng, tan biến cả vẻ hớn hở có ngay vừa rồi. Lão chắp tay, rầu rĩ như khấn:
- Ông ơi, ông mang nó ra ngoài kia, mang ngay ra ngoài kia...
Chúng tôi biết những người buôn bán kỵ cái thịt hãm tài này - nhất là người Trung Quốc.
Dường như thấy nó thì đã đánh hơi được cái mùi con ma xúi quẩy. Lão lại nhăn nhó:
- Giết nhà hàng rồi. Các ông không được, không được lớ!
Lúc ấy, hai bàn bên cũng quay sang. Cười nhăn nhở rồi họ lại cúi xuống ăn. Lão Tiểu Lạc viên đến góc nhà cầm một nắm hương châm cắm vào men tường trong chỗ dán tờ giấy điều trang kim đã xạm xỉn một nạm chân hương. Khói hương bốc mù căn phòng chật chội. Rồi lão bước lại phía chúng tôi, xốc kính, mặt hầm hầm, không hiểu lão định làm gì.
Nguyên Hồng, đứng lên, giơ tay:
- Phổ ky! Câm đi!
Nguyên Hồng lật đật gói lại bọc thịt chó, bỏ vào cặp. Nước mắt lưng tròng, nói:
- Lúc nãy ở tổ chúng nó đòi đuổi ông, bây giờ thằng Tàu này lại đuổi ông, tỉu cái nhà ma lớ!
Nguyên Hồng cung cúc bước ra, lấy xe đạp. Cũng chẳng ai buồn gọi lại. Đã biết tính nhau nhiều. Mấy năm sau, một lần Bùi Hiển, Nguyên Hồng và tôi chén thịt chó Chữ Hàng Bè rồi vào quán cà phê lão Ca. Vẫn Nguyên Hồng cầm bọc giấy gói mấy miếng thịt chó thừa, đặt lên góc bàn. Lần này, cái gói kín đáo, nhưng tôi vẫn ngài ngại. Lão cà phê Ca không có nhà. Vợ lão trông hàng. Tự nhiên, bà ấy đứng lên đến chỗ cửa nách châm nén hương vào khám thờ thần tài dán giấy điều. Linh tính tôi đoán người đàn bà Tàu đã đánh hơi thấy mùi lạ. Như chọt nhớ ra, Nguyên Hồng đã tinh ý bỏ gói vào cặp.
Mấy hôm sau, trở lại Tiểu Lạc viên, lão có ngay lại ngước mắt kính cười cười, đưa ra bát đũa và chén tương ớt - Nguyễn Tuân bao giờ cũng gọi là lạp chíu chương. Lão xoay cái đuôi thìa cẩn thận đặt trước mặt Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng. Thêm hai miếng chanh cho Nguyên Hồng. Nhà hàng đã thuộc ông khách có thói quen vắt chanh, lại đổ dấm vào đĩa húng rau để sát trùng. Đến tận hồi chống Mỹ, Tiểu Lạc viên vẫn đông khách thế. Một lần kia, đến thầy bà Tiểu Lạc viên mọi khi đương nằm cái giường gấp ở gian trong. Tiếng trẻ mới sinh khóc oe oe. Hỏi thăm thì ra lão Tiểu Lạc viên đã ngất đi, chết nửa đêm giữa lúc máy bay ném bom cầu Long Biên cuối tháng trước. Người vợ đã lấy chồng khác. Ông Tàu này gày lom khom. Nào biết đứa trẻ ấy con ai. Đã lâu không đến, không tiện hỏi. Trên mặt kính cái tủ con đặt ngoài cửa vẫn ba chữ Tiểu Lạc viên sơn đỏ. Cửa hàng mở, nhưng hiu hắt, vắng vẻ. Đến năm nhiều người Trung Quốc bỏ thành phố đi, bà ấy với người chồng sau ra Cát Hải vượt biển. Nghe nói thuyền chuyến ấy đi bị đắm, chết cả.
Những đêm mưa rả rích gợi cái thú quán cà phê lão Ca. Thường đến lão Ca vào lúc nào, chắc là khi đã ngà ngà ở Tiểu Lạc viên hay hàng bánh cuốn chú Hồng Lâm ra. Nhưng cũng có buổi chỉ đến đây. Trong ngõ ngách này, chúng tôi lui tói mấy quán, không đậu lại đâu. Phúc Châu tiếng tăm, nhưng tạp. Chen vai thích cánh, những võ sĩ đai đen thập đẳng, ngũ đẳng hay các ông cá mú trụ ở góc bao quát, hay một tay cướp ngày lẳng lặng ngồi xuống, rờ túi ngực, túi quần vờ tìrn cái bật lửa. Nó đang ngắm cô Phúc Châu thắt lưng đen bóng hay nó sắp rút dao găm dí xế dưới sườn rồi thản nhiên đưa con mồi ra ngách ngõ lên Hàng Đào, hỏi mượn cái ví và cái đồng hồ. Quán Lý Hảo thì ấm cúng hơn. Chỉ phải cái mụ Lý ăn nói đối đáp và cử chỉ như tập thể dục trước mặt khách. Chả là Lý Hảo, đương kim thể thao lướt ván nữ loại một. Hội hè nào cũng giật giải nhất đứng đầu sóng hồ Hoàn Kiếm. Thằng chồng mặt vuông Nhật Bản, như Ai Nguyên An Nghệ. Nhưng nó là người Quảng Châu, chỉ bưng cà phê và cười ruồi. Mất vui, cũng chẳng lý thú, bởi nhà này ít chuyện.
Cà phê Ca chưa mấy quen như rồi sau chúng tôi đến nhiều hơn. Lúc đầu chỉ nghe mang máng trước kia lão Ca ở trên Hà Giang, làm nghề đuổi ngựa buôn cho nhà chúa đất Vương. Còn tôi để ý chỉ vì thấy ngồi trong hàng một người đàn bà luống tuổi, mặt buồn rười rượi. Có hôm thoáng sau chiếc bình phong con công đỏ gắt, cái áo xường xám xa xưa màu cánh chả xẻ tà xoè ngang đầu gối. Cứ hao hao người con gái ngày xưa ở nhà gác đầu đường Cổ Ngư hồ Tây mà sáng nào tôi cũng đi học qua. Ai khi tuổi ấy chẳng trông thấy bao nhiêu bóng đẹp thấp thoáng và mộng mơ. Không hỏi có phải trước kia nhà bà ở đầu ô Yên phụ, tôi chỉ lặng im cho mình được đinh ninh. Tưởng tượng vun thêm vào làm cho không phải cũng thành phải. Nếu bà ấy nói: Vâng, tôi là vợ tông Ca. Lại càng khó hiểu, thế thì phải từ Hà Giang xuống. Như vậy, lại hoá ra buồn. Thôi cứ mơ hão vậy. Cà phê phin nhà Ca nhạt đường, hợp chúng tôi mà Nguyễn Tuân khéo tưởng tượng là có vị rừng. Chưa biết rừng Hà Giang có cà phê hay không. Chỉ Nguyên Hồng đã bị hai năm an trí căng Bắc Mê rõ đôi chút chăng. Nhưng Nguyên Hồng chẳng khi nào kể lại về nhà tù chính trị đi đày ấy. Chỉ nghe một người tù Bắc Mê khác tả Nguyên Hồng đi làm cỏ vê, đi lấy củi cũng đeo mấy cái ống bơ đằng đít, cái đựng muối, cái để cơm nguội và lủi thủi một mình.
Comments
👽Wili-Little Seal🦭 !!🦑
ra chap nhanh nha tg,hóng cựccc:33
2024-12-14
0