chương 5 sự chuẩn bị

Tỉnh giấc, cậu kiểm tra đống đồ gốm đang phơi khô. Thấy mọi thứ đã khô, cậu ra kiểm tra lò nung. Cậu lấy than đã đốt hôm trước ra và gom thành một đống gần lò. Cậu dùng một cái vỏ chuối khô kẹp vào một cây gậy để tạo thành hình dấu cộng. Sau đó, cậu lấy đất sét tạo khuôn cho nó, đặt vào bên trong và dựng khung như một cây đánh lửa. Cậu kéo thử, đây chính là một hệ thống thổi gió để thổi vào lò.

Làm xong, cậu đi kiểm tra bẫy. Một lúc sau, khi trời đã gần tối, cậu trở về với 3-4 con chim to nhỏ đã được làm sạch và một nắm lông cánh trên tay. Không biết cậu định dùng chúng làm gì.

Trở về lều, cậu nướng luôn hai con chim lên lửa, còn hai con kia, cậu làm một cái khung giá rồi gác chúng lên.

Giờ đây, cậu đã sử dụng con dao đá thành thạo hơn rất nhiều. Ăn xong, cậu che đậy lại mọi thứ cần thiết rồi đi ngủ.

Ngày thứ mười một

Gà chưa kịp gáy, sương vẫn còn giăng mờ trên mặt đất. Bên chiếc lò, một bóng người đang vừa thêm than vừa kéo một dụng cụ. Cứ kéo ra đẩy vào, cậu làm cho than trong lò đỏ rực lên. Đến khi lửa bén hết vào than, cậu dừng lại, cẩn thận đặt từng món đồ gốm đã khô vào, thêm than rồi lại tiếp tục kéo. Vì hôm qua đã ngủ cả ngày, hôm nay cậu dậy từ rất sớm để chuẩn bị cho mẻ gốm đầu tiên.

Trong lúc ngồi kéo bễ thổi lửa, cậu ta đánh giá lại hòn đảo sau khi đi hết một vòng. Cậu hình dung trong đầu: hòn đảo này có sườn nam bằng phẳng, dài hơn sườn bắc. Sườn bắc thì có những phần lồi ra, hình dạng như một trái đào dài. Phía cậu ở như là phần đuôi của nó vậy. Theo dự tính, phần rộng nhất từ nam sang bắc khoảng 6-7km.

Ngẩn ngơ được một lúc, mặt trời lên. Lúc này, cậu thêm một đống than rồi kéo một lúc, sau đó nghỉ tay ăn nốt số thịt chim còn lại. Về phần củ chuối, cậu phải mang đi ngâm nước trước, đợi khi có nồi đất mới chế biến được. Ăn xong, cậu lại tiếp tục canh bên lò nung.

Gần trưa, cậu lại lặp lại quy trình thêm than rồi đi xem bẫy. Chắc do loài chim đã cảnh giác nên bẫy chỉ được đúng một con rồi rời các bẫy đi nơi mới. Con chim cậu bắt được Nó có thân hình thon, khi đứng cao khoảng 50-100cm, chân dài và sải cánh rộng. Màu lông chủ yếu trắng muốt, vài phần lông xám điểm đen ở cánh. Đầu và cổ dài, thon; mỏ dài, nhọn, màu vàng, xám; mắt nhỏ, sáng và có vẻ rất nhanh nhẹn.

Đó là một con cò, mà loài này thường sống ở các khu đầm lầy, bờ ao, bãi biển và thích ăn các loại cá nhỏ. Nhưng nơi đây đến bóng dáng loài cá cũng không thấy, sao lại có loài cò này nhỉ? Chắc hẳn chỉ có những con cua đồng đã dẫn dụ chúng đến đây.

Cậu ăn uống rồi thêm than, kéo bễ thổi than đỏ hồng, nóng rực. Cậu dừng lại, đi kéo thêm củi để chuẩn bị đốt làm than dùng dần. Lúc này, lò nung đã đốt được gần chín tiếng. Cậu dừng không đốt nữa mà đợi nguội tự nhiên, chuyển sang làm việc khác.

Gần chiều, cậu được hai đống to ụ các khúc cây khô như ướt. Người cậu ướt nhẹp do mồ hôi. Cậu bỏ đó, đi xem bẫy. Một lúc sau, cậu trở về với khuôn mặt hớn hở. Trên vai vác một bó dây leo, tay còn lại xách hai con chim cút. Trông nó vẫn còn cự quậy và chỉ bị buộc chân, đang kêu gào muốn thoát.

Đến lều, cậu chọn bãi đất gần lều, lấy vài cây cọc cao khoảng 50cm, đóng xuống đất chắc chắn. Rồi lấy dây leo đan theo những khung dần cao lên, rồi lấy phần đan nắp tạo thành một chiếc hộp rộng khoảng 1 mét . Kiểm tra chắc chắn, rồi lấy hai con chim cút thả vào trong, buộc chắc chắn nắp lại. Lúc này, hai con chim được thả cố tìm đường chạy nhưng góc nào cũng là bức tường chắc.

Vì vui khi bắt sống được con gì đó làm cậu quên cả mệt cả đói. Nhưng mà để hai con đó nuôi thì bữa tối nay cậu chắc chỉ có thể cắn vỏ cây, rễ cây qua đêm.

Cậu trở về lều ngủ với cơn bụng đói. Sáng ngày thứ 12, cậu thức dậy, thân xác uể oải. Cậu cẩn thận dỡ nắp lò ra, lấy từng sản phẩm gốm đã nguội ra khỏi lò.

Kiểm tra mẻ đầu tiên này: cái bát đã bị hỏng, chỉ có nồi đất và cái lu nhỏ cậu làm là đạt chất lượng. Thấy vậy, cậu liền tìm ba viên đá lớn, đặt thành kiềng ba chân, rồi châm củi, đem nước bỏ vào nồi đất. Đánh lửa, mang củ chuối đi rửa sạch, dùng dao đá cắt thành miếng vừa. Tìm bắt vài con cua nhỏ. Đợi nước sôi rồi cho tất cả chúng vào nồi. Cho đến khi củ chuối được ninh mềm, cậu bắc nồi ra, lấy cành cây làm đũa, ăn bữa sáng đầu tiên được nấu bằng nồi tử tế.

Vừa ăn, cậu vừa nhìn về phía những cái cây xa xa. Chúng đang vàng lá và rụng. Điều đó biểu trưng cho một mùa thu sắp qua đi. Điều chờ đợi cậu có lẽ là mùa đông gần tới.

Nếu cứ như thế này, cậu sẽ không thể qua nổi mùa đông được. Cần chuẩn bị thực phẩm cho mùa đông cũng như giữ ấm. Biết đâu khi đông đến lại có tuyết. Nhưng thực phẩm trong đảo khá ít, chỉ có thỏ và chim. Phải tìm cách ra ngoài để săn bắt, mà săn bằng cách nào? Dụng cụ toàn đá. Cậu ăn nốt số thức ăn trong nồi rồi lên kế hoạch tiếp theo.

Ăn xong, cậu đi kiểm tra và sửa lại bẫy. Trở về với một gùi toàn đá, cậu lấy đất làm một lò nhỏ. Cậu đốt, cho đá vào, thổi lửa cho đến khi đá vỡ vụn. Cậu lấy nước đổ vào, lấy đá ra đập nhỏ, cho vào lu nước. Vớt đi phần tạp nổi, để khô phần lắng xuống.

Cậu dựng một lò khác, cho than, lắp bễ, đốt lửa. Than hồng thì cho đá bị đập vụn vào, cho than xen kẽ các lớp như vậy được thực hiện liên tiếp khi hết số đá cậu mang về. Đến khi được khoảng ba đến bốn tiếng, cậu để cho than tắt, lấy nước rưới vào, lấy phần xỉ ở đáy lò kiểm tra.

Cậu định thử xem có thể thu được sắt không, nhưng sự thật phũ phàng là chỉ có xỉ than và đá, không thu lại được hạt sắt nào. Cậu nhìn vào các cục màu trắng khi gặp nước sủi bọt, nghĩ ngay đến vôi có thể dùng để xây dựng.

Nghĩ vậy, cậu liền bỏ qua sự hụt hẫng. Mong là sẽ có thu hoạch khi đi kiểm tra những cái bẫy. Ông trời đã đáp ứng cậu: đợt này bẫy cậu được một con chuột đực to. Không biết thế nào, nó lại bị thòng lọng xiết chặt vào cổ. Cậu thu hoạch và sửa lại bẫy, đi kiểm tra những cái tiếp theo. Liên tiếp thu được thêm hai đến ba con chim nhỏ nữa. Cậu xách về cùng con chuột

Cậu chỉ làm món nướng. Với chim, cậu bắc nồi, đổ ít nước xào qua, đến khi nước cạn, hơi rỉ mỡ từ thịt thì bắc nó xuống. Thịt chuột nướng với chim giúp cậu tâm trạng tốt hơn.

Ăn trưa xong, cậu nằm nghỉ ngơi. Xong dậy, thu thập các con mối đất cho chim ăn. Lúc có người đến gần, nó sợ. Khi người đi mất, nó bắt đầu bới mổ ăn những con mối.

Tiếp theo, cậu đào lấy đất sét rồi đập nhỏ, trộn với nước thành bùn đặc. Cắt cỏ khô nhỏ, trộn vào đất bùn theo tỉ lệ một phần rơm khô và năm – sáu phần đất, để rơm giúp gạch dai, ít nứt khi phơi khô. Sau đó, cậu lấy cành cây đo sẵn, tạo thành một cái khung, rồi dùng đất cho vào khung. Dùng các tảng đá phẳng đã được mài nhẵn ép nén chặt, rồi đem phơi ra bãi đất đã được cậu dọn. Quy trình lặp đi lặp lại đến khi trời tối.

Nhìn lại sân phơi, đã được gần 40-50 viên. Cậu lại đi kiểm tra số bẫy, trở về với một con chim nhỏ và một bọc cua đồng. Năm – sáu con cua được cậu rửa sạch, mang ra nấu canh, còn chim thì nướng trên than hồng.

Ăn uống xong, cậu xếp củi to vào lò nung, xếp những viên gạch đầu tiên vào. Đậy nắp lò để củi cháy âm ỉ tỏa nhiệt. Cậu canh lửa một lúc. Hôm nay trời quang mây, trăng tròn sáng. Canh lửa đến khuya, cậu vào đi ngủ sau đó Liên tiếp ba ngày sau, cậu lặp đi lặp lại những quy trình làm gạch: phơi và nung. Đến mức chỗ lấy đất bị móc thành một hố nhỏ. Làm nhiều quen tay, cậu đã nhuần nhuyễn nhanh nhẹn hơn. Một ngày, cậu có thể làm ra 100-150 viên bán thành phẩm, nung khô được 20-30 viên thành phẩm. Đó là do nguyên liệu đốt và lò quá nhỏ.

Liên tiếp ba ngày, từ 16 đến 18, cậu đi nhặt đá, gom lại và gom thêm củi đốt làm than và nung gạch. Khi gom gần hết các cành cây, củi khô gần xung quanh thì cậu mới dừng lại.

Dùng đất sét tạo thêm một cái lò. Cậu cho hết một số đá vào lò, đốt lửa, bịt kín chỉ để phần cửa, thêm than đốt cả ngày thì cậu dừng lại, để nguội tự nhiên.

Lúc đợi nó nguội, cậu kiếm thức ăn cho người như chim, dọn qua cỏ cho khu vườn của mình.

Sáng ngày hôm sau, cậu dỡ lò. Khi này, đá đã chuyển sang màu trắng và dễ tan khi bóp. Cậu đã chính thức làm được vôi sống.

Cậu lấy một ít vôi sống, trộn với đất sét đã được nung khô, giã mịn, cùng với tro được đốt từ vỏ cây và lá cây khô. Cậu làm thành mười đống nhỏ khác nhau với các thành phần, tỉ lệ khác nhau để mục đích tìm ra tỉ lệ trộn thích hợp nhất.

Cậu lấy nước rồi cho vào, dùng cành cây trộn đều. Đến khi đống thứ chín, cậu mới thấy hợp lý để xây dựng nhất, nhưng vẫn thiếu cái gì đó. Lúc này, cậu mới nghĩ ra là còn thiếu cát. Cậu lẩm bẩm: "Cát thì phải đến nơi con suối chảy vào hồ mới có. Muốn đến đó phải ra khỏi đảo này, mà ra như thế nào đây?

Lúc này, trong đầu cậu nghĩ: liều phải làm một cái bè vượt nguy hiểm ra ngoài kia kiếm sống mới được, không thể ngồi chờ chết được!

Nghĩ thế, cậu đánh chủ ý vào cây vả. Vật liệu làm bè phải là cây nhẹ, có những lỗ rỗng ở giữa, có thể nổi tốt. Cậu làm cây rìu đá mài sắc hai đầu, rồi theo đường trước đây tìm đến gốc cây vả. Lúc này, đã rụng gần hết lá.

Cậu chọn cành thích hợp rồi chặt xuống. Thấy không đủ, cậu đi loanh quanh gặp được thêm ba cây nữa, cậu chặt xuống. Lúc này, cậu gặp hai thân cây khô lớn, nhấc thử rất nhẹ, rất thích hợp để làm khung cho bè.

Lấy đủ, cậu dùng dây nối các cành lại với hai thân cây khô lớn tạo thành hình chữ nhật, rồi xếp các cành cây vả lên, dùng cây nẹp lại, buộc chắc chắn. Kéo đến nơi có mô đất trồi ra vì nơi đó đến bờ bên kia gần hơn và có vẻ nước nông hơn.

Lấy cây sào làm mái chèo, đẩy bè xuống. Thấy nó đã nổi tốt, cậu bước lên đứng trên đó thử một lúc, thấy nó vẫn nổi được tốt. Cậu kéo bè lên bờ rồi trở về. Cả đi cả về, chuẩn bị đã mất hai ngày.

Trên đường về, cậu kiếm thức ăn, bắt những con sâu bọ hay hạt cây rừng chim ăn được để cho chim cút ở nhà.

Sáng ngày 22, bên bếp lửa đã có một cậu bé ngồi, tay cầm thịt rắn đã nướng, nhai ngấu nghiến. Các lò được cậu lấy lá phủ che lại hết, chuồng chim cũng vậy. Bên trong còn có vài ống được nung bằng gốm có những con sâu, có ống chứa nước. Dưới đất có lá cây và những hạt cây rừng mà cậu quan sát chim ăn được. Vài quả chuối hạt bóc treo ở trong đó. Cậu chuẩn bị để những ngày tiếp theo cậu rời khỏi đảo, chim vẫn có thể sống sót.

Ăn xong, cậu lấy lu, nồi gốm cho vào gùi, đeo lên vai, đi đến nơi để bè. Khoảng hai tiếng sau, cậu đến nơi, đẩy bè xuống, lấy sào, bước lên bè, chuẩn bị rời khỏi.

Đi đến giữa mặt hồ, cậu thấy ở dưới nước có những bóng đen bơi đến gần chỗ cậu. Căng thẳng, cậu giơ giáo lên quan sát, sẵn sàng phi ra khi có động tĩnh. Nhưng có lẽ nơi đây nước nông hơn nên hai cái bóng không tiếp cận mà lặn sâu xuống, thi thoảng lại bơi lại gần bè để tìm cơ hội. Thấy vậy, cậu liền dùng sào đẩy nhanh bè về phía bờ. Vì nơi đây gần nhau nên chèo khoảng 20 phút đã đến bờ. Cậu kéo bè lên, đánh giá xung quanh. Cậu định tìm nơi cao để quan sát.

Lúc này, cậu quan sát hướng mặt trời mọc, gọi nó là Đông, hướng lặn là Tây. Cậu chọn hướng Tây Bắc mà đi vì nhìn sang bên đó có những dãy núi cao.

Một lúc sau, lúc này giữa trưa, mặt trời lên đỉnh đầu. Trên một ngọn núi, cậu đang ngồi đốt lửa, tay đang cầm gặm đó là phần non của cây cọ cậu bắt gặp trong rừng. Trong gùi, cậu còn có vài ngọn non.

Cậu đang đốt lửa để nướng con rắn mà mình bắt được. Ăn xong, cậu lấy túi da rắn ở trong gùi ra, uống vài ngụm nước trong đó, rồi nướng con rắn, quan sát mọi phía.

Nhìn tổng thể, khu hòn đảo như một thung lũng. Phía Tây bị vây bởi một ngọn núi nhỏ. Phía Bắc có cả một khu rừng, dãy núi chồng chất lên nhau. Phía Nam có khu rừng ngập nước, sau khu rừng là đồng bằng cỏ, như những cái cây cổ thụ lác đác đến tận chân trời. Phía Đông thi thoảng có núi nhấp nhô, không nhìn rõ do cậu sợ vào sâu quá sẽ gặp thú nguy hiểm nên chỉ tìm ngọn núi gần đó đi lên.

Cậu đánh giá xong bốn phía, quay lại lấy thịt rắn, gói lại bằng lá, trở về bên hồ, tìm về phía có nguồn nước chảy vào hồ để lấy cát, tìm chỗ trú ẩn. Cậu đi dọc theo bờ hồ phía Tây đến nơi cậu từng theo con sông nhỏ đến đây. Nơi đây quanh bờ hồ có cát, nhưng lại pha với bùn.

Thấy thế, cậu đi xung quanh lấy nguyên liệu, như đặt bẫy thòng lọng, rồi trở về dựng lều trú tại đây qua đêm. Sáng mai rồi tính tiếp. Làm xong trời đã tối, những tiếng thú hoang phát ra từ các hướng vang trời. Cậu ăn thịt rắn rồi cố đi ngủ.

Sáng sớm hôm sau, mặt hồ có một cậu bé đang dùng một cái nồi đất múc nước, xách về bên bếp lửa. Cậu nấu nước sôi, lấy đọt cọ ra thái thành miếng nhỏ cho vào, đậy nắp. Rồi cậu đi xem những bẫy gần đó trước, bắt được một con sóc xám.

Cậu mang về làm sạch. Trong lúc cậu vứt ruột nó xuống hồ, thấy được bóng con thủy quái đó bơi lên đớp. Cậu lấy sóc về, cắt thành miếng cho vào nồi. Đợi nó sôi, vẫn cây đũa từ thiên nhiên gắp ăn từng miếng thịt sóc, đọt cọ. Buổi sáng hơi se lạnh, được nồi canh nóng còn gì bằng!

Ăn xong, cậu suy nghĩ. Trước đó, cậu đã thấy ở đâu đó dãy núi phía sau có cây luồng. Nó là một loại tre có thể tạo thành rổ thì việc rửa, lấy cát thuận lợi hơn. Rồi cậu lên đường đi tìm.

Khoảng một giờ sau, cậu đang trên một khe suối nhỏ, bắt những con cá nhỏ, cậu bắt gặp những thanh tre khô bị nước cuốn đến đó. Cậu vui mừng đi theo khe suối, vừa đi vừa bắt cua đá, cá nhỏ. Khoảng một tiếng nữa, cậu bắt gặp một rừng tre luồng.

Cậu bắt tay dùng phương pháp cũ: đốt gốc rồi dùng đá đốn cây. Lúc đốt, không rảnh rỗi mà kiếm những hang chuột, hun khói bắt chúng.

Lúc bắt chuột, cậu có để ý được một động tĩnh, đó là phía bên kia bờ suối, cánh rừng có tiếng lợn kêu. Có vẻ như nó đang bị gì đó. Cậu tò mò nhưng vì nguy hiểm, không dám đi xem, chỉ chăm chú làm việc cần thiết và cảnh giác mà thôi.

Hot

Comments

opiko

opiko

Truyện này quá đáng để đọc nhiều lần, cám ơn tác giả 😍

2025-10-01

0

Toàn bộ

Download

Bạn thích tác phẩm này? Tải APP để không mất lịch sử đọc.
Download

Phúc lợi

Người dùng mới tải APP nhận mở khóa miễn phí 10 chương

Nhận
NovelToon
Step Into A Different WORLD!
Download MangaToon APP on App Store and Google Play