Và tất nhiên là tôi đã không chết, may và cũng không may. Tôi vẫn còn nhớ như in về những gì đã xảy ra khi mình tỉnh lại bên dưới đống tan hoang từng được gọi là pháo đài.
Gạch đá, cột, xà bần của pháo đài tạo thành một đống hổ lốn và bằng cách thần kỳ nào đó, chúng chồng chất lên nhau tạo ra một khoảng trống vùi tôi ở giữa. Lưng tôi đau nhói còn chân trái bị đá đè lên. Chúng không còn cảm giác nữa. Khẽ cựa mình, một cơn đau nhói lan từ sau gáy tới, tôi đưa tay lên sờ, là máu. Trông thì nhầy nhụa phát ớn nhưng có vẻ đang khô lại, chắc là tét đầu. Tôi bị thương khá nặng và không chết.
Thật kì lạ, lúc đó tôi nghĩ, sao có thể may mắn đến thế.
Nằm dưới đống đổ nát và cố nhớ lại những chuyện đêm trước, tôi cứ thấy mơ mơ hồ hồ chẳng còn gì rõ ràng. Hình ảnh cứ chạy đua qua mắt tôi. Tôi nghĩ về mẹ, nữ chiến binh ngoan cường, người chẳng hề sợ hãi kể cả khi cái chết gần kề đã ngã xuống. Trái tim tôi như thể bị ai đó đâm vài nhát, bà ấy vốn là tất cả những gì tôi có và là điều quan trọng nhất trong cuộc đời này. Cảm giác thống khổ ấy xen lẫn với thù hận khi ấy dìm tôi xuống đáy vực sâu thẳm.
Tôi nhớ về bà ấy, về mái tóc thơm mùi những đóa hoa nở trong đêm muộn, về nụ cười bà rạng rỡ khi tôi cưỡi ngựa bắn trúng hồng tâm, hay những ngày hè nóng nực, chúng tôi thong dong trong rừng Sapphire, lắng nghe tiếng suối chảy, gió thổi, như một bản tình ca thì thầm. Rồi những đêm trăng sáng bên cửa sổ, mẹ sẽ kể tôi nghe về chuyện xưa cũ của người Norris ở bên kia bờ biển Thialfi, về con Sói khổng lồ Hati miệt mài đuổi bắt mặt trăng. Như một đứa trẻ, nước mắt chảy dài xuống hai vành tai, tôi cắn tay mình để không bật ra tiếng khóc thành lời. Tôi ước gì mình có thể cứu bà ấy. Uớc gì mình có thể làm bất cứ thứ gì miễn mọi việc khác đi, nhưng không thể, tôi cũng chỉ có thể nằm yên chờ mục rã dưới đống đổ nát.
Tôi chẳng nhớ mình đã nằm đó bao lâu, chắc là đến quá trưa, vì tôi cảm nhận được sức nóng dần lên khi mặt trời chiếu đến. Trong bóng tối ngột ngạt, tôi nghe thấy tiếng bọn Urga và lũ Yêu tinh, có cả tiếng người Norris nữa, nhưng tôi chỉ nghe thấy tiếng của phụ nữ và trẻ em. Người Norris không phải ai cũng có thể chiến đấu, tuy họ mạnh hơn người thường, nhưng cũng có rất nhiều người giống Daisy, không thích hợp cầm vũ khí. Họ được bảo vệ để trở thành bất cứ điều gì họ muốn, thợ thủ công, thợ rèn, nông dân,... kể cả người kể chuyện. Họ không thể phản kháng lại lũ quái vật đó, những tiếng la hét đó cũng tuyệt vọng nhiều như những gì tôi cảm thấy.
"Ít ra mình có thể chết mòn ở đây mà không phải chịu đau đớn như họ," tôi thầm nghĩ và rồi thiếp đi.
Tôi tỉnh lại khi nghe tiếng động xung quanh. Bụi đá rơi lả tả xuống và tôi phải lấy tay che mặt rồi nhìn qua khe hở giữa những ngón tay. Thêm một tảng đá được nhấc lên, tôi nhìn thấy hàm răng lởm chởm và cái lưỡi rỏ dãi của một con Sói ma. Rồi tiếp theo là bọn Urga, chúng dời bỏ đống đổ nát và phát hiện ra tôi.
Tôi cố nhét con dao vào ống giày bên chân phải với nửa hi vọng rằng lũ Urga ngu đần này không phát hiện. Sau một lúc, tôi cảm nhận được ánh mặt trời chói chang chọc thẳng vào mắt. Rồi chúng xốc tôi dậy, xét qua người tôi một lượt mà không xét giày.
" Lũ ngu đần," tôi nghĩ.
Tôi rệu rã đến mức bọn chúng chẳng thèm trói tôi lại và chỉ lột bỏ áo giáp rồi quăng thẳng lên lưng con Sói ma. Chúng đưa tôi đi mà không giết, có lẽ vì máu của tôi vẫn còn chút hữu ích.
Chúng đưa tôi đi ngang qua một đống xác chết. Bên cạnh là bọn quái vật đang giật phăng áo giáp và mũ sắt của các tử sĩ ra khỏi cơ thể máu me và chẳng còn nguyên vẹn của họ, nếu không phải nói là nát bấy và gom chúng lại một góc cùng với vũ khí. Một tên Yêu tinh mang đến một ngọn đuốc, một mồi lửa hỏa thiêu họ. Tôi kịp nhận ra mái tóc vàng và gương mặt quen thuộc trong đống xác đó trước khi ngọn lửa bùng lên, là mẹ tôi.
"Không," tôi hét lên, giãy dụa.
Bọn Yêu tinh tát tôi vài cái sau đó chúng đánh tôi ngất đi.
Vết thương sau gáy đau nhói làm tôi tỉnh lại. Tôi nhận ra bọn chúng xốc nách tôi lôi sền sệt qua hành lang tối tăm của ngục giam và tôi thì chẳng còn sức mà giãy dụa nữa. Khi đi qua buồng giam nhốt đầy người Norris, ánh mắt họ đầy sợ hãi và tuyệt vọng, vốn dĩ cũng chẳng còn hi vọng.
"Cuối cùng phép thuật đó cũng có hiệu quả," tôi nghe một giọng nói vang lên từ buồng giam bên trái, rồi tôi nhìn thấy, Stephen, vị pháp sư già, trưởng lão hội pháp sư của Vanyar. Người ông chi chít vết thương với tư thế bị trói đứng và hai tay bị xích sắt quấn chặt hai bên, miệng đầy máu nhưng ông vẫn cố nói. "Cháu vẫn còn sống, Elle, con gái của Philomena".
Tôi gằn ra khỏi sự khống chế của hai tên Urga lao đến nắm chặt song sắt buồng giam.
"Ngài Stephen, ngài vừa nói gì thế ạ?"
"Ta đã nhìn thấy cháu chiến đấu một mình trên đỉnh pháo đài," vị pháp sư già khó nhọc nói, "cháu thật anh dũng và cô độc. Sự dũng cảm ấy của cháu khiến ta phải làm mọi cách không thể để cháu chết được. Khi còn chút hơi tàn và bằng tất cả lòng chân thành, ta đã tặng cháu một món quà."
"Là gì thế ạ? Ngài Stephen cháu vẫn chưa hiểu," tôi bám chặt vào buồng giam mặc kệ hai tên Urga ra sức lôi kéo đánh đập.
"Là phép thuật cứu rỗi cháu, Elle à. Khi pháo đài sụp đổ, ta đã ban cho cháu một lời chúc phúc bằng phép màu, gặp dữ hóa lành. Vốn là ta đã liều lĩnh, đó là một phép thuật cổ xưa mà ta đã vô tình đọc được trong một cuốn cổ thư. Đây cũng chỉ là trò may rủi vì ta chỉ cố thử và suýt chút nữa thì nó đã phản phệ, cho cả ta và cháu. Nhưng cháu rất may mắn, cháu gái à, có thể không giúp cháu tránh xa mọi nguy hiểm, nhưng nó sẽ cố giữ cho cháu sống sót," rồi ông thở dài. "Nếu ở Vanyar này tất cả chiến binh đều như cháu, có lẽ chúng ta đã không rơi vào hoàn cảnh này".
"Ngài Stephen, cháu không thể làm gì để báo đáp ngài. Cháu... cháu không thể cứu ai cả, không thể làm gì được cả..." Nước mắt tôi rơi xuống như mưa còn bàn tay ghì chặt song sắt đến lòng bàn tay rớm máu.
"Ta không mong gì hơn, cháu yêu à, cầu mọi đều may mắn sẽ đến với cháu. Lời chúc phúc của ta và cả mẹ cháu, Philomena sẽ bên cạnh cháu đến cuối đời." Rồi ông giục đầu xuống, không nói thêm gì nữa.
Bọn Urga phải cạy và suýt bẻ gãy từng ngón tay để kéo tôi ra khỏi những chấn song. Chúng tức giận lôi tôi vào một phòng giam khác, tống vào đó rồi khóa cửa lại. Chỗ đó tối om, chỉ có ánh sáng chập chờn từ mấy ngọn đuốc cùng khung cửa sổ bé tẹo. Những bức tường lạnh lẽo xám ngắt của buồng giam u tối đã giết chết hết ý chí phản kháng của tôi.
Liếc nhìn bọn Urga canh dọc hành lang, tôi thu mình trong góc ngẫm lại những gì ngài Stephen nói. Cho tới lúc đó tôi mới rõ việc mình sống sót dưới đống đổ nát không hẳn là may mắn tình cờ mà là nhờ lời chúc phúc của ngài ấy, vì sự dũng cảm khiến ngài ấy cảm động.
Mãi sau này, may mà có phép màu bảo hộ đó mà những biến cố trong cuộc đời tôi trở nên nhẹ nhàng hơn hẳn.
Tôi ngồi thẩn thờ nhìn mãi ô cửa sổ bé ti hin đó, chẳng còn quan tâm sống chết của bản thân. Màn đêm buông xuống, rồi mặt trời lại lên cao. Tôi nhớ mình bị giam khoảng mười hôm. Ngục tối hôi hám toàn những âm thanh ám ảnh khắc sâu vào trí nhớ của tôi, tiếng chuột gián bò trong góc tường, tiếng roi quật vào da thịt nhầy nhụa, xích sắt chà xát lên nền đá, thỉnh thoảng là tiếng gào thét của người Norris khi bị lũ Urga đưa đi. Tôi biết họ được đưa đi đâu, đến lò rèn lấy máu làm vũ khí.
Tên Raymond có đến một lần, vào giữa đêm và hắn lẩm bẩm gì đó khi đến gần vị pháp sư già, rồi ngục giam bỗng chốc vang vọng tiếng thét của ngài ấy, sau đó im bặt. Khi gã pháp sư tà ác đó rời đi, hắn có liếc ngang tôi một cái. Cái nhìn của hắn lạnh lẽo như lưỡi kiếm kề vào cổ, khiến tôi rúm người lại một cách hèn nhát. Một lúc sau, tôi đã bò đến gần chấn song sắt và cố nhìn ngài Stephen. Qua ánh đuốc lờ mờ, gương mặt ngài ấy nhuốm một màu u tối, mắt mở to chỉ còn tròng trắng ngửa đầu nhìn lên trần nhà, miệng lẩm bẩm gì đó, tôi chỉ nghe loáng thoáng là.
"Không...không phải như thế".
"Ngài Stephen," tôi gọi khe khẽ, không có tiếng trả lời, chỉ có mấy gã Urga canh gác đến gần. Chúng thò chân qua song sắt đạp tôi một cái bảo tôi im lặng.
"Lũ khốn," tôi thầm rủa rồi bò trở lại cái xó trong góc tường của mình.
Updated 60 Episodes
Comments